Nợ công đã dần an toàn
Nợ công đã an toàn hơn | |
Sự an toàn của nợ công được đánh giá dựa trên những chỉ tiêu nào? | |
4 điểm nổi bật của công tác quản lý nợ công | |
Nâng cao năng lực quản lý tài chính để quản lý tốt nợ công |
Khá nhiều khoản nợ trong và ngoài nước sẽ đến hạn trả vào 2020. Ảnh: ST. |
Dự kiến nợ công 57,4%GDP
Theo thống kê mới được Bộ Tài chính công bố, năm 2018, cả nước đã huy động vốn vay trong nước 250,5 nghìn tỷ đồng để đáp ứng nhu cầu bù đắp bội chi ngân sách trung ương và trả nợ gốc, đạt 90,8% so với kế hoạch và chiếm 78,6% cơ cấu vay vốn của Chính phủ. Trong đó kênh phát hành trái phiếu Chính phủ (TPCP) vẫn tiếp tục đóng vai trò chủ đạo. Cũng trong năm 2018, giải ngân vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài của Chính phủ khỏang 3.010 triệu USD, chiếm 21,4% cơ cấu huy động vốn của Chính phủ. Việc thực hiện nghĩa vụ trả các khoản gốc, lãi của Chính phủ nằm trong mức đã được phê duyệt tại các Nghị quyết của Quốc hội, đảm bảo đầy đủ, đúng hạn theo cam kết.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính tiếp tục bám sát chủ trương của Bộ Chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo chủ động tăng cường kiểm soát việc cấp bảo lãnh và quản lý rủi ro nghĩa vụ nợ dự phòng của NSNN. Năm 2018 không cấp mới bảo lãnh Chính phủ cho các dự án vay vốn trong nước. Năm 2018 đã thực hiện cấp bảo lãnh chính phủ cho 2 dự án điện với tổng trị giá là 1.614 triệu USD. Không sử dụng hạn mức bảo lãnh cho doanh nghiệp vay nước ngoài trong năm và dư nợ cuối năm bằng 4,4% GDP (giảm 0,6% so với cuối năm 2017). Về cơ bản, các dự án được Chính phủ bảo lãnh trả nợ đầy đủ đúng hạn. Trong quản lý, đã đôn đốc quyết liệt để hoàn tất việc ký hợp đồng thế chấp tài sản đối với các dự án vay của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh; khuyến khích người vay trả nợ trước hạn để giảm dư nợ bảo lãnh.
Các chỉ tiêu về nợ công đến hết ngày 31/12/2018 đều tốt. Cụ thể: Chỉ tiêu nợ công đạt 58,4% GDP, thấp hơn mức trần là 65%; nợ Chính phủ đạt 50% GDP, trần là 54%; nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ là 15,9% tổng thu NSNN, thấp hơn nhiều so với yêu cầu là 25%; nợ nước ngoài quốc gia là 46% GDP, cũng chưa chạm trần 50% mà Quốc hội đặt ra. Kỳ hạn phát hành TPCP bình quân đạt 6-8 năm.
Theo ước tính của Bộ Tài chính, đến hết năm 2019, nợ công của Việt Nam sẽ ở mức 57,4% GDP; trong đó nợ Chính phủ là 49,7% GDP; nợ Chính phủ bảo lãnh là 7,1% GDP; nợ chính quyền địa phương là 0,5%GDP. Đây có thể nói là những tỷ lệ khá “lý tưởng”
Đối diện “đỉnh” nợ tiếp theo
Nhìn lại có thể thấy, nợ công ngày càng an toàn hơn. Năm 2017, 2018 và đầu năm 2019, huy động TPCP chủ yếu có kỳ hạn trên 10 năm, ít số lượng kỳ hạn 5 năm, danh mục nợ còn lại hiện khoảng 6,7 – 6,8 năm so con số 1,7 – 1,8 năm, phải vay đảo liên tục của 5 năm trước có thể nói là rất tích cực. Bình quân huy động còn lại lên 12 – 13 năm. Về nghĩa vụ trả nợ Chính phủ, những năm 2011 – 2013, vay có lúc lãi suất 11 – 13% nhưng năm 2017 chỉ khoảng 5,9%, năm 2018 khoảng 4,6%/năm, năm 2019 cũng tương tự.
Chia sẻ tại một số sự kiện gần đây, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho hay: “Khi làm việc với các tổ chức quốc tế, tôi nói phải xem lại chính sách cho Việt Nam vay. Chúng ta đã tốt nghiệp IDA (nguồn vốn ưu đãi của Ngân hàng Thế giới), vay toàn ưu đãi, chúng ta vay ưu đãi 2 – 3% nhưng tính cả trượt giá ngoại tệ có thể lên đến 6 – 7%, cao hơn cả vay trong nước, chưa kể còn nhiều yếu tố phụ thuộc, từ đấu thầu, thiết bị… Nói vậy không phải không vay nước ngoài mà phải xử lý hợp lý để cơ cấu nợ công tốt, kỳ hạn, lãi suất tốt. Bội chi ngân sách số tuyệt đối 3 năm liền cũng đều giảm so với dự toán nên tôi đánh giá hướng đang đi rất tốt. Tốc độ gia tăng nợ công giai đoạn 2011 – 2015 khoảng 18% năm nhưng giai đoạn 2016 – 2018 thì chỉ còn trên 8%, giảm một nửa”.
Tuy các chỉ số nợ công đang nằm trong giới hạn an toàn, tính theo cả yêu cầu của Quốc hội cũng như thông lệ của quốc tế, song nguy cơ không hẳn đã hết. Theo ông Võ Hữu Hiển – Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, Bộ Tài chính, hiện nay, một số khoản vay sắp đến hạn trả đang ít nhiều tác động đến sự an toàn của nợ công tại Việt Nam. Chẳng hạn, các khoản vay trong nước vay từ 5 năm trước sẽ đến hạn vào thời điểm 2020-2021 tới đây; một số khoản vay ODA, kể cả có lãi và không lãi cũng đến hạn phải trả nợ gốc vào năm 2020,… làm gia tăng áp lực trả nợ vào thời gian tới. Bên cạnh đó là lãi suất. Khi được công nhận là nước có thu nhập trung bình, Việt Nam không được hưởng các khoản vay ưu đãi nhiều nữa, chưa kể một số khoản vay phải chịu lãi suất thả nổi với nhiều rủi ro; ngoài ra là rủi ro tái cấp vốn, tăng nghĩa vụ trả nợ,…
Một số thách thức khác là rủi ro tái cấp vốn tập trung vào các khoản nợ trong nước của Chính phủ do nghĩa vụ trả nợ đến hạn tập trung cao vào một số năm. Điều này sẽ tác động đến việc bố trí nguồn trả nợ trong cân đối NSNN, việc giảm dần các khoản vay ưu đãi trong 5 năm tới dẫn đến thiếu hụt nguồn vốn vay dài hạn, ưu đãi cho đầu tư,…
Chia sẻ về giải pháp, ông Hiển cho hay: Bên cạnh các giải pháp vĩ mô đã được triển khai trong những năm qua, tới đây, Bộ Tài chính sẽ tập trung vào việc đồng bộ và hiệu quả các quy định của pháp luật về quản lý nợ công; tổ chức đối chiếu, rà soát, đánh giá, tổng hợp nhu cầu vay của các bộ ngành, địa phương và các đơn vị sử dụng vốn vay công để dự báo tổng mức vay, trả nợ của ngân sách trung ương, ngân sách địa phương, hạn mức vay về cho vay lại và hạn mức bảo lãnh Chính phủ sau năm 2020; tiếp tục thúc đẩy phát triển thị trường vốn trong nước, thị trường trái phiếu Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện hạn mức nợ nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng, bảo đảm trong hạn mức được phê duyệt, đặc biệt là các khoản nợ ngắn hạn.
Tin liên quan
Tăng tính chủ động, phân quyền mạnh hơn khi sửa đổi 7 luật về tài chính
08:57 | 01/11/2024 Tài chính
Một luật sửa 7 luật tài chính: Động lực mới cho tăng trưởng kinh tế
08:00 | 01/11/2024 Chính sách và Cuộc sống
Còn áp lực lên mặt bằng giá, phấn đấu CPI bình quân không vượt quá 4%
21:37 | 30/10/2024 Tài chính
Cuối tháng 10/2024, còn hơn 2% vốn đầu tư công chưa được phân bổ
12:51 | 02/11/2024 Tài chính
Hoàn thiện pháp luật về thuế xuất nhập khẩu theo hướng miễn giảm đúng đối tượng
09:31 | 02/11/2024 Hải quan
Nhà đầu tư cá nhân được quyền đầu tư trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ
17:41 | 01/11/2024 Chứng khoán
Kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo an toàn nợ công quốc gia năm 2024
07:52 | 01/11/2024 Tài chính
Chính sách thuế bất động sản hướng đến quản lý chặt chẽ, chống lãng phí nguồn lực đất đai
20:29 | 29/10/2024 Tài chính
Chính sách tài khoá cần trở lại trạng thái bình thường trong giai đoạn mới
14:54 | 29/10/2024 Tài chính
Sẽ áp thuế GTGT đối với hàng hoá giá trị nhỏ
14:48 | 29/10/2024 Tài chính
Sửa đổi Luật Thuế GTGT: Không cho phép hoàn thuế với hàng tạm nhập tái xuất
14:45 | 29/10/2024 Tài chính
"Giá phân bón tăng giảm không do thuế"
14:39 | 29/10/2024 Tài chính
Dự án "1 luật sửa 7 luật": Chi cục thuế có thẩm quyền quyết định hoàn thuế?
11:18 | 29/10/2024 Tài chính
Dự án "1 luật sửa 7 luật": Tháo gỡ “điểm nghẽn” của nền kinh tế
11:12 | 29/10/2024 Tài chính
Tháo gỡ khó khăn mang tính "điểm nghẽn" của giải ngân đầu tư công
19:03 | 28/10/2024 Tài chính
Tạo hành lang pháp lý gỡ vướng trong sử dụng chi thường xuyên mua sắm tài sản, cải tạo công trình
18:52 | 28/10/2024 Tài chính
Vấn đề Bạn quan tâm
Tin mới
Khởi tố Công ty Biomass buôn lậu “khí cười”
Doanh nghiệp cần gì cho công cuộc chuyển đổi số?
Mua bán thuốc online
TP Hồ Chí Minh ra quân phát triển người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
Thủ tướng: Phát triển giáo dục, đào tạo phục vụ kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Tuyên bố chung giữa Việt Nam và UAE về nâng cấp quan hệ lên Đối tác Toàn diện
08:35 | 29/10/2024 Sự kiện - Vấn đề
(INFOGRAPHICS) 32 tỷ USD kim ngạch xuất nhập khẩu nửa đầu tháng 10
09:14 | 29/10/2024 Infographics
Phiên họp Ủy ban Kỹ thuật thường trực WCO tại Bỉ: Dấu ấn điều hành của đại diện Hải quan Việt Nam
09:25 | 29/10/2024 Hải quan
Hành vi buôn lậu “khí cười” tại Công ty Hoa Việt diễn ra thế nào?
10:18 | 29/10/2024 An ninh XNK