Facebook Twitter youtube Tiktok

HTCAA góp ý nhiều nội dung liên quan đến Luật Thuế TNDN, TTĐB

Hội Tư vấn và Đại lý thuế TP HCM (HTCAA) vừa có văn bản (Công văn số 05/2024/CV-HTCAA ngày 19/8/2024) gửi Đoàn đại biểu Quốc hội, UBND, Hiệp hội doanh nghiệp (DN) và Cục Thuế TP HCM về việc góp ý một số một số nội dung liên quan đến dự thảo Luật Thuế TNDN, TTĐB sửa đổi, bổ sung.
htcaa gop y nhieu noi dung lien quan den luat thue tndn ttdb

Đối với thuế TNDN

Theo đó, đối với chi phí khấu hao tại Điểm e, Khoản 2 Điều 9 Dự thảo Luật thuế TNDN, HTCAA cho rằng, mặc chi phí khấu hao không được trừ của tài sản cố định (TSCĐ) không chứng minh được quyền chủ sở hữu của doanh nghiệp (DN) tại dự thảo Luật và đang được áp dụng tại Tiết b, Điểm 2.2, Khoản 2, Điều 4 Thông tư số 78/2014/TT-BTC (được sửa đổi tại Điều 4 Thông tư 96/2015/TT-BTC). Tuy nhiên, thực tế có nhiều trường hợp DN sử dụng đất thuê, mượn, sau đó xây dựng công trình trên đất nhưng không có giấy phép xây dựng hoặc không hoàn công được do nhiều nguyên nhân (có thể là vi phạm pháp luật xây dựng, PCCC…), nhưng bản chất đây là tài sản của DN được ghi nhận và trích khấu hao theo pháp luật Kế toán. Vì vậy, cần có quy định cụ thể về những trường hợp đặc thù nêu trên theo hai phương án: Một là giao Bộ Tài chính quy định cụ thể các trường hợp này, nên cần sửa đổi: “Chi khấu hao đối với TSCĐ không có giấy tờ chứng minh được thuộc quyền sở hữu của DN (trừ tài sản cố định thuê mua tài chính và các trường hợp đặc thù do Bộ Tài chính quy định)”; Hai là thực hiện theo nguyên tắc DN vi phạm ở đâu, xử lý ở đó và vi phạm pháp luật nào xử theo lý pháp luật đó. Trên cơ sở đó, DN được ghi nhận là TSCĐ và được trích khấu hao tính vào chi phí được trừ để đồng bộ với pháp luật Kế toán cũng như thực tế của DN; đồng thời, DN bị xử lý vi phạm theo các pháp luật có liên quan…

Về chi phí thuế GTGT và khấu hao đối với ô tô dưới 9 chỗ ngồi. Tại Điểm l, Khoản 2 Điều 9 của Luật thuế TNDN quy định phần thuế GTGT vượt 1,6 tỷ đồng của xe ô tô dưới 9 chỗ ngồi không được khấu trừ. Tuy nhiên, dự thảo Luật chưa quy định phần trích khấu hao TSCĐ vượt 1,6 tỷ đồng, điều này là chưa đồng bộ sẽ dẫn đến khó khăn trong áp dụng, hơn nữa sẽ không đạt được mục đích điều chỉnh của Luật đối với trường hợp này. Mặt khác, mức khống chế 1,6 tỷ đồng đã quá lạc hậu so với điều kiện kinh tế xã hội, nên cần nâng mức khống chế đó lên cho phù hợp; đồng thời cần xác định xe ô tô bị khống chế trong trường hợp này là các loại xe sử dụng vào mục đích nào được loại trừ tại thông tư của Bộ Tài chính?

Do đó, đề nghị bổ sung quy định về mức khống chế chi phí khấu hao đối với xe ô tô dưới 9 chỗ ngồi và cần loại trừ các trường hợp đặc biệt cụ thể tại Điểm c Khoản 2 Điều 9 dự thảo Luật Thuế TNDN như sau: c. Khoản trích khấu hao TSCĐ không đúng quy định của pháp luật gồm:… phần trích khấu hao không đúng hoặc vượt mức quy định hiện hành về chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao theo quy định của Bộ Tài chính và phần nguyên giá tài sản cố định vượt mức [1,6 tỷ đồng] của xe ô tô dưới 9 chỗ ngồi không tham gia vào hoạt động vận tải, logistics. Hoặc theo một phương án khác là giao Bộ Tài chính hướng dẫn các trường hợp xe ô tô dưới 9 chỗ ngồi và mức nguyên giá khống chế quy định tại khoản này.

Chi phí không được trừ của thuế GTGT theo Khoản 2 Điều 9 Dự thảo Luật thuế TNDN. Theo Điểm l Khoản 2 Điều 9, thì phần thuế GTGT đầu vào đã khấu trừ, thuế GTGT nộp theo phương pháp khấu trừ… cần được làm rõ: thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ là số thuế phải nộp hoặc số thuế đã nộp tính theo phương pháp khấu trừ hay toàn bộ thuế GTGT đầu vào theo phương pháp khấu trừ đều không được tính vào chi phí được trừ, trừ trường hợp chưa khấu trừ hết nhưng không thuộc trường hợp hoàn thuế?

Theo ý kiến của HTCAA, nếu thuật ngữ “thuế GTGT nộp theo phương pháp khấu trừ” được hiểu theo nghĩa là toàn bộ số thuế đầu vào nộp theo phương pháp khấu trừ không được trừ, ngoại trừ trường hợp nêu trên thì việc quy định không cho trừ “phần thuế GTGT đã khấu trừ” là không cần thiết vì DN phải thực hiện theo phương pháp khấu trừ mới có số thuế GTGT đã khấu trừ trong khi nội dung này như phân tích nêu trên đã được bao hàm. Vì vậy cần hướng dẫn và quy định cụ thể về nội dung này, đồng thời bổ sung cụm từ “thuộc trường hợp được hoàn thuế nhưng không hoàn thuế” để trao quyền cho DN được chủ động và linh hoạt. Khi đó, ngoài kiến nghị làm rõ nội hàm của cụm từ “thuế GTGT nộp theo phương pháp khấu trừ” như nêu trên thì cần bổ sung cuối khổ 2 Điểm l khoản 2 Điều 9 như sau: Phần thuế GTGT nộp theo phương pháp khấu trừ quy định tại điểm này không bao gồm phần thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ đầu vào liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của DN chưa được khấu trừ hết nhưng không thuộc trường hợp hoàn thuế hoặc thuộc trường hợp hoàn thuế nhưng không thực hiện hoàn thuế”.

Về phương pháp tính thuế tại Điều 11 Dự thảo Luật thuế TNDN. Hiện tại chuyển nhượng vốn, chứng khoán của DN được thành lập theo pháp luật Việt Nam phải nộp thuế theo kê khai với mức thuế phổ thông (20%) trong khi tại Khoản 2 Dự thảo Luật thuế TNDN quy định là 0,1% đối với chứng khoán và 2% đối với chuyển nhượng vốn là không phù hợp bởi vì: về cơ bản việc đầu tư, góp vốn và chuyển nhượng vốn trực tiếp của DN vào Việt Nam được quản lý khá chặt chẽ thông tin vốn góp cũng như các giao dịch bán, chuyển nhượng vốn.

Vì vậy, để đảm bảo tính “công bằng và bình đẳng” các loại hình DN, loại hình đầu tư cũng như nguyên tắc “đánh thuế trên thu nhập thực tế”, nên HTCAA kiến nghị áp dụng thống nhất các trường hợp chuyển nhượng vốn, cổ phần (chứng khoán) của các DN nước ngoài đều nộp thuế theo phương pháp kê khai như đã thực hiện trước đây. Bên cạnh đó, cần có quy định rõ về định nghĩa “chuyển nhượng vốn gián tiếp” và cần luật hóa các trường hợp ngoại lệ không tính thuế như: (i) chuyển nhượng chứng khoán/cổ phần niêm yết của công ty mẹ ở nước ngoài; (ii) giao dịch tái cấu trúc nội bộ không nhằm mục tiêu sinh lời; (iii) các trường hợp khác theo quy định tại các Hiệp định thuế để đảm bảo thống nhất và thể hiện rõ quyền đánh thuế của Việt Nam. Hoặc có thể quy định các giao dịch chuyển nhượng vốn, cổ phần nhưng bản chất là chuyển nhượng tài sản có gắn với bất động sản, quyền khai thác tài nguyên, thiên nhiên, dầu mỏ… tại Việt Nam.

Về phân bổ thu nhập ưu đãi theo Khoản 2 Điều 18 Dự thảo Luật thuế TNDN, HTCAA tán thành với việc bổ sung tiêu thức phân bổ là doanh thu và chi phí tại Khoản 2. Tuy nhiên, cần bổ sung cụm từ “Chi phí được trừ và tổng chi phí được trừ” để đảm bảo thống nhất và đồng bộ với quá trình tính toán kê khai nộp thuế của DN cũng như thanh tra, kiểm tra thuế của cơ quan có thẩm quyền như thông tư Bộ Tài chính đã quy định trước đây. Khi đó, Khoản 2 Điều 18 nên sửa như sau: … hoặc chi phí được trừ của hoạt động sản xuất kinh doanh được ưu đãi thuế trên tổng doanh thu hoặc tổng chi phí được trừ của DN.

Về thuế TTĐB

Về cơ bản, HTCAA thống nhất và tán thành với Dự thảo Luật thuế TTĐB, tuy nhiên có một số góp ý như sau:

Một là, tán thành việc tiếp tục đánh thuế TTĐB đối với xăng hoặc chuyển sang loại thuế là thuế Bảo vệ môi trường cho đúng bản chất, vì đây là hàng hóa có khả năng gây nguy hại cho môi trường để làm thay đổi thói quen tiêu dùng, hạn chế sử dụng xăng. Việc điều chỉnh này là phù hợp với lộ trình sử dụng phương tiện công cộng hướng tới nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và mức giảm phát thải CO2 đến năm 2050 mà Việt Nam đã cam kết.

Hai là, không tán thành việc đánh thuế TTĐB đối với máy điều hòa có công suất dưới 90.000 BTU bởi lẽ máy điều hòa không phải là hàng hóa xa xỉ trong điều kiện hiện nay, đặc biệt ngoài máy điều hòa thì người dân không còn nhiều lựa chọn khác để ứng phó cải thiện môi trường để có điều kiện sống tốt hơn. Bên cạnh đó, máy điều hòa không gây nguy hại nhiều cho môi trường mà trong quá trình bảo dưỡng, bảo trì, xử lý sau khi sử dụng máy điều hòa mới gây nguy hại cho môi trường. Vì vậy cần đánh thuế cho đúng bản chất, đúng đối tượng. Ví dụ, chỉ nên đánh thuế vào các dòng máy nào gây tác hại đến môi trường và không đánh thuế với các dòng máy không gây tác hại đến môi trường để khuyến khích sản xuất, sử dụng các sản phảm thân thiện với môi trường.

Ba là, tán thành việc đánh thuế TTBĐ đối với nước giải khát có đường như dự thảo. Tuy nhiên, cần thay đổi cách đánh thuế theo lũy tiến cụ thể: nước giải khát nào có hàm lượng đường càng cao thì chịu thuế càng lớn và cần có thời gian, lộ trình để các DN và người tiêu dùng có thời gian thích ứng với chính sách. Theo HTCAA, nên thực hiện thí điểm, sau đó đánh giá tác động từ chính sách thuế này đến người tiêu dùng, nhà sản xuất và nền kinh tế, từ đó sẽ hoàn thiện cách đánh thuế, mức thuế và đối tượng đánh thuế sẽ phù hợp hơn với thực tiễn và được sự đồng thuận cao hơn.

Anh Phạm (lược ghi)

Tin liên quan

Mở rộng đối tượng được giảm thuế giúp nền kinh tế sớm phục hồi, tăng trưởng

Mở rộng đối tượng được giảm thuế giúp nền kinh tế sớm phục hồi, tăng trưởng

Theo ông Nguyễn Văn Được, Tổng giám đốc Công ty TNHH Kế toán và Tư vấn Thuế Trọng Tín, việc mở rộng đối tượng giảm thuế giá trị gia tăng (GTGT) 2% không chỉ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, người tiêu dùng mua được nhiều hàng hóa với giá rẻ hơn mà còn góp phần đưa nền kinh tế sớm phục hồi, tăng trưởng.
Hiệu quả triển khai các ứng dụng quản lý hóa đơn điện tử

Hiệu quả triển khai các ứng dụng quản lý hóa đơn điện tử

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách phát triển kinh tế xã hội, đạt những kết quả tích cực, góp phần thực hiện các mục tiêu tăng trưởng bền vững, phát triển kinh tế, ổn định xã hội và đảm bảo an ninh quốc gia.
Quản lý thuế thương mại điện tử tại Việt Nam:  đánh giá chính sách và kiến nghị

Quản lý thuế thương mại điện tử tại Việt Nam: đánh giá chính sách và kiến nghị

Khi thương mại điện tử (TMĐT) được nhận định là xu hướng tất yếu của các giao dịch trong nền kinh tế số thì pháp luật về TMĐT hoặc giao dịch điện tử đã được 158 quốc gia thông qua, trong đó có 79 quốc gia đang phát triển và 29 quốc gia kém phát triển nhất (UNCTAD, 2024).
Quản lý thuế hoạt động thương mại điện tử: hạn chế pháp lý và đề xuất hoàn thiện

Quản lý thuế hoạt động thương mại điện tử: hạn chế pháp lý và đề xuất hoàn thiện

Trong thời gian qua, sự phát triển của công nghệ đã giúp thị trường thương mại điện tử (TMĐT) Việt Nam ngày càng mở rộng, trở thành phương thức kinh doanh phổ biến và quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế số quốc gia. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng đặt ra nhiều thách thức với công tác quản thuế. Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp lý về quản lý thuế TMĐT, bài viết sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế lĩnh vực này.
Giải pháp  nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế

Giải pháp nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế

Tuân thủ thuế có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cả cơ quan thuế và người nộp thuế (NNT), bởi việc đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế và tuân thủ công tác báo cáo thuế mang lại nhiều hiệu quả trong sử dụng và quản lý, như giảm thời gian làm thủ tục hành chính thuế, giảm chi phí cho DN và khắc phục tình trạng làm giả mạo, tiết kiệm chi phí xã hội và nâng cao ý thức NNT. Bài viết sử dụng số liệu thứ cấp giai đoạn 2017-2023 của Tổng cục Thuế bằng phương pháp thống kê, so sánh và khảo sát, để tập trung đánh giá, phân tích thực trạng, từ đó đề xuất biện pháp trong thời gian tới.
Bài 2: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế  hộ kinh doanh ở Việt Nam

Bài 2: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế hộ kinh doanh ở Việt Nam

Đối chiếu với kinh nghiệm của thế giới có thể thấy, thời gian qua, ngành Thuế Việt Nam đã không ngừng nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tập trung xây dựng các ứng dụng công nghệ thông tin... nhằm tăng cường công tác quản lý thuế đối với hộ, cá nhân kinh doanh (H-CNKD). Mặc dù vậy, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế lĩnh vực này, đảm bảo đáp ứng các yêu cầu cải cách hệ thống thuế và theo đúng lộ trình chuyển đổi số nền kinh tế, cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện cả về thể chế và phương thức quản lý.
Thuế với biến đổi khí hậu: kinh nghiệm tại một số nước G7 và khuyến nghị cho Việt Nam

Thuế với biến đổi khí hậu: kinh nghiệm tại một số nước G7 và khuyến nghị cho Việt Nam

Biến đổi khí hậu (BĐKH) đã và đang ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển kinh tế, xã hội, môi trường của các quốc gia trên thế giới. Vì thế, trong những thập niên vừa qua, các nước, đặc biệt là nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7) đều rất coi trọng việc xây dựng và thực thi kế hoạch tài chính khí hậu thông qua các chính sách tài chính công (CSTCC) nhằm tận dụng những cơ hội có lợi và giảm thiểu rủi ro, từ đó phát huy nguồn lực của toàn xã hội trong thích ứng BĐKH.
Quản lý thuế hộ kinh doanh: kinh nghiệm quốc tế và một số giải pháp cho Việt Nam

Quản lý thuế hộ kinh doanh: kinh nghiệm quốc tế và một số giải pháp cho Việt Nam

Với khoảng 5,5 triệu hộ kinh doanh (HKD) đang hoạt động trong nền kinh tế, công tác quản lý thuế nhóm đối tượng này luôn chiếm nhiều thời gian, nguồn lực của cơ quan thuế, song kết quả thu được lại chưa tương xứng. Nhằm tìm ra “kế sách” để cải thiện tình hình, thời gian qua, ngành Thuế đã triển khai nhiều đề án nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế đối với HKD. Góp phần vào nỗ lực này, trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới và đánh giá thực tế áp dụng tại Việt Nam, chuyên đề “Quản lý thuế hộ kinh doanh: kinh nghiệm quốc tế và một số giải pháp cho Việt Nam” của Tạp chí Thuế sẽ gợi mở, đề xuất một số giải pháp với cơ quan quản lý.
Bài 3: Sửa đổi quy định về biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thu kịp thời tiền nợ thuế vào NSNN

Bài 3: Sửa đổi quy định về biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thu kịp thời tiền nợ thuế vào NSNN

Cưỡng chế nợ thuế là một giải pháp quan trọng của công tác quản lý nợ thuế, nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và công bằng trong thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN của người nộp thuế. Tuy vậy, thời gian qua, việc thực hiện biện pháp cưỡng chế nợ tại các cơ quan thuế đang gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Với phương châm “giảm một đồng nợ thuế là tăng thu một đồng cho NSNN để phục hồi, phát triển kinh tế”, tại dự thảo Luật Quản lý thuế sửa đổi, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi quy định về biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, nhằm tháo gỡ vướng mắc về cơ chế chính sách, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý thuế.
Đề xuất 3 phương án xác định ngưỡng chịu thuế GTGT đối với hộ và cá nhân kinh doanh

Đề xuất 3 phương án xác định ngưỡng chịu thuế GTGT đối với hộ và cá nhân kinh doanh

Trong những ngày gần đây, trên các diễn đàn kinh tế, nhiều chuyên gia đề xuất nên điều chỉnh mức doanh thu chịu thuế GTGT mới đối với hộ và cá nhân kinh doanh là 200 triệu đồng (thay mức hiện hành 100 triệu đồng), một số chuyên gia khác thì kiến nghị áp mức doanh thu mới lên 300 triệu đồng/năm... Để có cơ sở khoa học và tính thuyết phục cho vấn đề này, nhóm chuyên gia Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội đã tiến hành nghiên cứu và đề xuất 3 phương án xác định ngưỡng chịu thuế GTGT đối với hộ và cá nhân kinh doanh trong thời gian tới.
Bài 2: Thiết lập hành lang pháp lý về quản lý thuế thương mại điện tử, đảm bảo môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng

Bài 2: Thiết lập hành lang pháp lý về quản lý thuế thương mại điện tử, đảm bảo môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng

(TCT online) -Khi hoạt động thương mại điện tử (TMĐT) và kinh doanh dựa trên nền tảng số được xác định là xu hướng tất yếu của nền kinh tế số thì cần thiết phải xây dựng, thiết lập hành lang pháp lý đầy đủ cho lĩnh vực này, nhằm đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, minh bạch trên môi trường kinh doanh. Theo hướng này, nhiều quy định tại các điều, khoản của Luật Quản lý thuế đã được cập nhật để sửa đổi bổ sung cho phù hợp với thực tiễn công tác quản lý...
Chuyển giá quyền sở hữu trí tuệ: bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ vụ kiện của Apple

Chuyển giá quyền sở hữu trí tuệ: bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ vụ kiện của Apple

Ngày 10/9/2024, Tòa án Công lý châu Âu (“ECJ”) đã đưa ra phán quyết về một vụ án thuế lớn liên quan đến hoạt động chuyển giá của Apple. Theo đó, ECJ đã ra lệnh cho Ireland thu hồi gần 14 tỷ Euro tiền thuế từ Apple do nộp thiếu trước đây. Đây cũng là một trong những phán quyết lớn nhất từ trước đến nay liên quan đến hành vi chuyển giá. Bài viết này phân tích cơ cấu định giá chuyển nhượng do Apple thiết lập liên quan đến Ireland và những cơ sở mà ECJ đã quyết định Apple phải nộp bổ sung các khoản thuế, từ đó gợi ý bài học kinh nghiệm hoạch định và giám sát hoạt động chuyển giá ở Việt Nam.
Quản lý hóa đơn điện tử: cần đồng bộ nhiều giải pháp

Quản lý hóa đơn điện tử: cần đồng bộ nhiều giải pháp

Tóm tắt: Việc chuyển đổi từ hóa đơn giấy sang hóa đơn điện tử (HĐĐT) là nhu cầu tất yếu, khách quan trong cải cách lĩnh vực thuế, nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước, giúp cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng công bằng, minh bạch, đồng thời thúc đẩy phát triển nền kinh tế số. Tuy nhiên, một số tổ chức, cá nhân đã lợi dụng kẽ hở của pháp luật để phát hành và sử dụng HĐĐT trái pháp luật hòng gian lận thuế, chiếm đoạt NSNN. Để ngăn chặn tình trạng này, các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng chống gian lận HĐĐT qua cơ chế quản lý rủi ro (QLRR) đã được đặt ra, tuy nhiên mức độ đến đâu thì vẫn cần phải bàn thảo thêm.
Xem thêm
cty-tan-hiep-phat
peugeot-viet-nam
cty-tan-hiep-phat
peugeot-viet-nam
cty-lien-thai-binh-duong-ippg-1-thang-dien-dan-hq-dn-tu-12-9-2024-den-12-10-2024-kt-300x250

Tin mới

Giá vàng trong nước và thế giới đồng loạt tăng mạnh trong ngày đầu tháng 4/2025

Giá vàng trong nước và thế giới đồng loạt tăng mạnh trong ngày đầu tháng 4/2025

Giá vàng trong nước và thế giới đồng loạt tăng mạnh, đạt ngưỡng cao kỷ lục.
Từ vụ Kẹo rau củ Kera: Cẩn trọng trước những thông tin quảng cáo trên mạng xã hội

Từ vụ Kẹo rau củ Kera: Cẩn trọng trước những thông tin quảng cáo trên mạng xã hội

Công ty kẹo rau củ Kera bị phạt 125 triệu đồng do buôn bán hàng hóa có nhãn không ghi đủ hoặc ghi không đúng các nội dung bắt buộc.
Máy đào bitcoin không thuộc danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu

Máy đào bitcoin không thuộc danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu

Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) đề nghị Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp nghiên cứu, phân tích, phân loại, áp mã HS cụ thể đối với mặt hàng máy đào Bitcoin.
Các công ty xây dựng uy tín vươn mình khi thị trường được “tái sinh”

Các công ty xây dựng uy tín vươn mình khi thị trường được “tái sinh”

Giai đoạn 2024-2025 được kỳ vọng là giai đoạn “tái sinh” ấn tượng của ngành xây dựng với một loạt tín hiệu lạc quan.
Mỗi năm cần hoàn thành 150.000 căn nhà ở xã hội mới đạt mục tiêu đề ra

Mỗi năm cần hoàn thành 150.000 căn nhà ở xã hội mới đạt mục tiêu đề ra

Phát triển các dự án nhà ở xã hội dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực nhưng so với yêu cầu và mục tiêu của Đề án xây dựng 1 triệu căn nhà ở xã hội thì vẫn chưa đáp ứng được.
(INFOGRAPHICS) Kết quả xuất nhập khẩu nổi bật trong 2 tháng đầu năm 2025

(INFOGRAPHICS) Kết quả xuất nhập khẩu nổi bật trong 2 tháng đầu năm 2025

Hết tháng 2/2025 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 127,07 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước.
(Infographics) Tổng thu từ xuất nhập khẩu các tỉnh, thành vùng Tây Nguyên

(Infographics) Tổng thu từ xuất nhập khẩu các tỉnh, thành vùng Tây Nguyên

Số thu NSNN từ hoạt động XNK các tỉnh vùng Tây Nguyên 11 tháng đầu năm 2024 đạt 896,84 tỷ đồng, đạt 106,14% dự toán, chiếm 0,23% số thu toàn Ngành.
(INFOGRAPHICS) Kim ngạch hơn 67 tỷ USD, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam

(INFOGRAPHICS) Kim ngạch hơn 67 tỷ USD, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam

Hàn Quốc hiện là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam.
(INFOGRAPHICS): Tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp tham gia chương trình tự nguyện tuân thủ

(INFOGRAPHICS): Tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp tham gia chương trình tự nguyện tuân thủ

Tổng cục Hải quan ban hành Quyết định số 2790/QĐ-TCHQ về việc ban hành Chương trình khuyến khích doanh nghiệp tự nguyện tuân thủ pháp luật hải quan.
(INFOGRAPHICS) Tổng thu từ XNK các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ

(INFOGRAPHICS) Tổng thu từ XNK các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ

11 tháng đầu năm, số thu NSNN từ hoạt động XNK các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đạt 54.898,78 tỷ đồng, bằng 122,31% dự toán, chiếm 14,27% số thu toàn Ngành.
Phiên bản di động