Thuế với biến đổi khí hậu: kinh nghiệm tại một số nước G7 và khuyến nghị cho Việt Nam

Thực tiễn áp dụng CSTCC tại 3 nước G7
Các vấn đề nghiên cứu liên quan đến CSTCC thích ứng BĐKH đã được nhiều tác giả quan tâm, đề cập trong các sách báo, tạp chí, công trình nghiên cứu. Kế thừa những thành tựu trên, trong bài viết này, tác giả sẽ nghiên cứu mở rộng, vận dụng những phương pháp tổng hợp và phân tích chính sách để đánh giá hiệu quả của các CSTCC thích ứng BĐKH tại 3 nước G7, từ đó khuyến nghị phương hướng thực thi chính sách phù hợp tại Việt Nam.
Để xác định các CSTCC thích ứng BĐKH đang được các nước G7 đề xuất, xem xét, thiết kế cũng như những hiệu quả trong việc áp dụng, thực thi các chính sách này, tác giả đã tiến hành rà soát tài liệu thứ cấp; thu thập; tổng hợp; phân loại hệ thống và phân tích số liệu từ dự toán và phân bổ NSNN; đánh giá chi tiêu năm tài chính; các tài liệu đảm bảo tính cập nhật về hệ thống luật, hệ thống thuế, hệ thống các công cụ tài chính do Chính phủ 3 nước Anh, Đức, Nhật Bản ban hành.
Tại Anh
Với tư cách là Chủ tịch Hội nghị thượng đỉnh về BĐKH của Liên Hợp quốc lần thứ 26 (COP26), đồng thời là quốc gia có tốc độ giảm lượng phát thải nhanh nhất trong nhóm G7, Anh trở thành trung tâm tài chính xanh dẫn đầu thế giới, đặt nền móng cho nhiều thập kỷ tăng trưởng kinh tế đi đôi với giảm thiểu phát thải. Trên cơ sở hệ thống luật, Chính phủ Anh đã xây dựng và thực thi nhiều CSTCC thích ứng với BĐKH.
Đầu tiên, nhà nước trực tiếp đầu tư ngân sách. Trong dự toán và phân bổ NSNN, Chính phủ Anh rất coi trọng việc đầu tư ngân sách trực tiếp để thực hiện các dự án, chương trình nghiên cứu và phát triển công nghệ phục vụ cuộc cách mạng xanh toàn diện trên mọi lĩnh vực. Giai đoạn 2010-2020, Chính phủ Anh đã chi 5,5 tỷ bảng Anh cho tài chính khí hậu và cam kết giai đoạn 2021-2025 sẽ tăng gấp đôi, khoảng 11,6 tỷ bảng Anh, trong đó 3 tỷ bảng Anh sẽ được cấp cho các tổ chức, cơ quan thực hiện hoạt động phủ xanh và khôi phục đa dạng sinh học.
Tiếp đến, là chính sách thuế. Một mặt, Chính phủ Anh ban hành và thực hiện kết hợp nhiều chính sách thuế, như thuế BĐKH, thuế bảo vệ môi trường, thuế phát thải, thuế nhiên liệu, thuế phương tiện tiêu thụ năng lượng đặc biệt… nhằm góp phần kiểm soát khí phát thải. Theo đánh giá sử dụng ngân sách năm 2021 (SR21) của Bộ Tài chính Anh, việc Chính phủ Anh thực hiện chính sách thuế BĐKH đối với các lĩnh vực, khu vực sử dụng năng lượng, như công nghiệp, thương nghiệp đã làm chi phí tiêu thụ năng lượng của DN tăng lên từ 12-15%, tạo sức ép khiến DN sử dụng tiết kiệm năng lượng hơn. Ngoài ra, tất cả các hộ gia đình đều phải đóng thuế sử dụng nguyên liệu hóa thạch với mức thuế 2,2%, được tính vào giá điện sinh hoạt. Mặt khác, Chính phủ Anh sử dụng chính khoản thu từ các loại thuế trên để trợ cấp tài chính cho các hoạt động tiết kiệm năng lượng. Điển hình là, Chính phủ sẽ trích khoản thu từ thuế sử dụng nguyên liệu hóa thạch để trợ cấp cho các tổ chức và cá nhân sử dụng sản phẩm năng lượng tái tạo. Theo đó, Nhà nước sẽ chi trả một khoản nhất định cho quá trình lắp đặt công trình hoặc mua sắm các sản phẩm năng lượng tái tạo, chẳng hạn nếu sản phẩm đó trị giá 150 bảng Anh sẽ được Nhà nước trợ cấp khoảng 100 bảng Anh, hay hộ gia đình mua máy nước nóng năng lượng mặt trời được Nhà nước hỗ trợ 500 bảng Anh...
Cùng đó, phát hành trái phiếu xanh và trái phiếu tiết kiệm xanh. Trái phiếu xanh hay “Mạ xanh” là một loại trái phiếu chính phủ được phát hành để đầu tư cho các dự án liên quan đến hoạt động bảo vệ môi trường (dự án xanh) theo quy định tại Luật Bảo vệ môi trường và nằm trong danh mục dự án được phân bổ vốn đầu tư công theo quy định của Luật Đầu tư công, Luật NSNN.
Tại Đức
Đức là nền kinh tế lớn nhất châu Âu và dẫn đầu thế giới về công nghiệp nặng. Song song với quá trình phát triển kinh tế, Chính phủ Đức luôn chú trọng tìm kiếm các giải pháp nhằm giảm lượng phát thải khí nhà kính, thu giữ và lưu trữ CO2 được phát thải từ hoạt động công nghiệp, hướng tới phát triển kinh tế bền vững và đã đạt được nhiều thành tựu trong nỗ lực thích ứng với BĐKH toàn cầu. Trên cơ sở định hướng của Chiến lược, Chính phủ Đức đã xây dựng và thực thi nhiều CSTCC nhằm tối ưu hóa nguồn lực phục vụ các quá trình chuyển đổi, như:
Đầu tư trực tiếp NSNN. Trong Hiệp định Pari về BĐKH được thông qua tại Hội nghị COP 21 tháng 12/2015 và có hiệu lực ngày 4/11/2016, Chính phủ Đức cam kết sẽ loại bỏ dần việc sử dụng nguồn nhiên liệu hóa thạch và giảm lượng khí gây hiệu ứng nhà kính từ 80-95% vào năm 2050. Đồng thời, đến năm 2030, ngành công nghiệp Đức sẽ phải giảm 50% lượng phát thải khí CO2 xuống 140-143 triệu tấn.
Về chính sách thuế, Chính phủ Đức chú trọng xây dựng hệ thống thuế môi trường với ba loại thuế: thuế năng lượng, thuế điện và thuế xe cơ giới. Thuế năng lượng được Chính phủ Đức áp dụng từ năm 2003 đối với xăng, dầu diesel, dầu nóng, khí thiên nhiên và than đá. Mục tiêu chính của thuế năng lượng là giảm lượng khí thải carbon thông qua tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo và giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch. Bằng cách đánh thuế cao hơn đối với các nguồn năng lượng gây ô nhiễm, miễn/trừ thuế đối với các nguồn năng lượng tái tạo, Chính phủ muốn thúc đẩy các DN và hộ gia đình tìm kiếm giải pháp tiết kiệm năng lượng hơn. Theo Bộ Tài chính Đức, mức thuế áp dụng đối với nhiên liệu hóa thạch như xăng là khoảng 0,654 Euro/lít, dầu diesel khoảng 0,470 Euro/lít, trong khi mức thuế đối với khí tự nhiên chỉ khoảng 0,006 Euro/kWh. Doanh thu từ thuế năng lượng sẽ được sử dụng để tài trợ cho các chương trình đầu tư vào cơ sở hạ tầng xanh và nghiên cứu công nghệ sạch. Đối với thuế xe cơ giới, việc đánh thuế xe hơi, RV và xe tải cũng tính đến lượng phát thải thể hiện trong tài liệu xe. Xe chạy điện được đánh thuế theo tổng trọng lượng cho phép và thuế giảm một nửa so với xe chạy xăng hoặc dầu. Luật Thuế điện cũng quy định một số lợi ích để thúc đẩy các nguồn năng lượng thân thiện với môi trường. Thuế này đánh vào người tiêu dùng, tuy nhiên được tính thông qua giá điện và thông qua các nhà cung cấp, vận hành năng lượng với mức thuế là 20,50 Euro/MWh. Đối với điện được tạo ra hoàn toàn từ các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, gió hoặc địa nhiệt được miễn thuế điện.
Chính sách 49-Euro-Ticket (Deutschlandticket). Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng năng lượng toàn cầu hậu đại dịch Covid-19, chương trình áp dụng mức giá tạm thời 9 Euro đối với tất cả các phương tiện công cộng địa phương và khu vực trên toàn nước Đức trong 3 tháng mùa hè năm 2022 đã nhận được sự hưởng ứng tích cực từ người dân với 50 triệu lượt vé được bán ra. Tiếp nối thành công đó, ngày 1/5/2023, Chính phủ Đức công bố quyết định thực hiện chính sách 49-Euro-Ticket, phát hành dài hạn loại thẻ giao thông Deutschlandticket với chi phí dự kiến khoảng 1,5 tỷ Euro/năm, nhằm khuyến khích người dân sử dụng phương tiện công cộng thường xuyên hơn, góp phần giảm thiểu thiếu hụt nguyên liệu và tiết kiệm năng lượng. Ngoài ra, người đi làm cũng có thể mua được giá rẻ hơn 49 Euro nhờ chính sách hỗ trợ của từng DN.
Nhật Bản
Nhật Bản là quốc gia châu Á duy nhất thuộc nhóm G7 và là nền kinh tế lớn thứ 2 trong số các nước phát triển. Đặc biệt, đứng trước những tác động tiêu cực của BĐKH, Chính phủ Nhật Bản đã và đang rất quyết liệt trong công tác xây dựng, quản lý, thực thi các CSTCC nhằm thích ứng BĐKH và kiểm soát thảm họa do thiên nhiên gây ra.
Thứ nhất, Nhà nước trực tiếp đầu tư ngân sách. Trong những năm gần đây, đầu tư NSNN phục vụ các mục tiêu thích ứng BĐKH ở Nhật Bản không ngừng tăng lên, tập trung chủ yếu vào các hoạt động giảm thiểu phát thải khí nhà kính, nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ tiết kiệm năng lượng, xây dựng một số dự án điểm và thí điểm về sản xuất năng lượng tái tạo. Theo Báo cáo tài chính khí hậu Nhật Bản, năm tài chính 2022, NSNN sử dụng vào việc giảm thiểu phát thải khí nhà kính là 2,97 nghìn tỷ Yên và năm 2023 tăng lên 3,58 nghìn tỷ Yên, trong đó một phần lớn được phân bổ cho hạng mục tiết kiệm năng lượng, bao gồm đầu tư ngân sách cho hiệu quả năng lượng (21%), hạt nhân (14%), lưu trữ pin (13%), trợ cấp cho năng lượng tái tạo (8%), tài nguyên tái chế (2%). Nếu Chính phủ Nhật Bản tiếp tục đầu tư với tốc độ này, tổng số tiền sẽ đạt khoảng 12 nghìn tỷ Yên trong 10 năm tới.
Thứ hai, chính sách thuế. Chính sách thuế nhằm ứng phó BĐKH ở Nhật Bản chủ yếu tập trung vào việc thúc đẩy tiết kiệm năng lượng và phát triển năng lượng mới. Theo đó, đối với công nghệ và thiết bị tiết kiệm năng lượng phù hợp với điều kiện nhất định được miễn giảm thuế thu nhập, khấu hao nhanh, miễn giảm thuế, thực hiện thu thuế môi trường và thuế năng lượng phù hợp đối với từng nhóm đối tượng. Bên cạnh đó, chính sách miễn, giảm thuế TNCN cũng là một trong các biện pháp được Chính phủ Nhật Bản áp dụng phổ biến nhằm hỗ trợ người dân trước những thiệt hại do BĐKH gây ra. Cụ thể, người có thu nhập từ 5 triệu Yên trở xuống được miễn toàn bộ thuế; thu nhập từ 5 - 7,5 triệu Yên được giảm một nửa số thuế; thu nhập từ 7,5 - 10 triệu Yên được giảm một phần tư số thuế. Nếu một công ty bị mất tài sản do thiên tai được giảm thuế TNDN và có thể được chuyển lỗ tối đa 7 năm. Mặt khác, vào tháng 10/2012, Chính phủ Nhật Bản bắt đầu thực thi chính sách thuế carbon nhằm giảm thiểu lượng phát thải khí nhà kính. Đối tượng chịu thuế carbon là dầu thô, xăng, khí ga tự nhiên và than đá tại điểm bắt đầu đưa các sản phẩm nhiên liệu này vào thị trường (khâu nhập khẩu hoặc khai thác). Chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế carbon là các DN nhập khẩu, khai thác các loại nhiên liệu hóa thạch chịu thuế. Ở Nhật Bản, thuế carbon không tồn tại độc lập mà được bổ sung vào thuế than đá và dầu mỏ đã có. Mức thuế suất hiện tại là 289 yên/tấn CO2. Nguồn thu từ thuế carbon được Nhật Bản sử dụng để đầu tư phát triển công nghệ carbon thấp, cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng và phát triển năng lượng tái tạo.
Thứ ba, phát hành trái phiếu chuyển đổi khí hậu Nhật Bản (Trái phiếu GX). Trái phiếu GX là một công cụ tài chính quan trọng trong Kế hoạch Chuyển đổi xanh nhằm huy động nguồn tài chính phục vụ quá trình chuyển đổi xanh toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế xã hội của Nhật Bản.
Khuyến nghị cho Việt Nam
Có thể thấy, 3 nước G7 (Anh, Đức và Nhật Bản) đều coi trọng việc hoàn thiện và thực thi các CSTCC nhằm thích ứng BĐKH với điểm chung trong chiến lược là tăng cường đầu tư NSNN cho các hoạt động thích ứng BĐKH; hoàn thiện chính sách thuế. Trong đó, thuế carbon được các nước G7 áp dụng ngày càng phổ biến, góp phần hiệu quả trong nỗ lực giảm thải khí nhà kính, hướng tới phát thải ròng (Net Zero) vào năm 2050. Chính phủ Việt Nam có thể xây dựng và đưa vào thực thi loại thuế mới này nhằm: (1) khuyến khích các DN chuyển đổi từ công nghệ lạc hậu sang công nghệ sản xuất xanh, sạch hơn; tăng cường các hoạt động BVMT, nhất là trong các ngành hóa dầu, hóa chất, thép, than, nhiệt điện...; (2) tăng nguồn thu cho NSNN để tài trợ cho các nhiệm vụ bảo vệ môi trường, chống BĐKH hàng năm; (3) nâng cao tiêu chuẩn về giảm khí thải carbon trong quá trình sản xuất tại Việt Nam, giảm thiểu sự dịch chuyển các nhà máy sản xuất gây ô nhiễm môi trường từ các nước phát triển sang nước đang phát triển như Việt Nam.
Tuy nhiên, việc chuyển đổi sang các lĩnh vực năng lượng sạch hơn cho quá trình sản xuất có thể sẽ khiến chi phí sản xuất các sản phẩm hàng hóa của Việt Nam tăng lên, dẫn đến giảm khả năng cạnh tranh tại thị trường nội địa cũng như thị trường xuất khẩu; đồng thời, giá cả tiêu dùng các mặt hàng tăng ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống người dân, nhất là những người có thu nhập thấp trong xã hội. Vì vậy, Chính phủ cần nghiên cứu chuyên sâu để đưa ra lộ trình cụ thể, nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, DN và các đối tượng chịu thuế.
Tiếp đến là phát hành các công cụ tài chính xanh; thu hút đầu tư nước ngoài bằng chính sách ưu đãi về thuế, tài chính, đất đai; huy động vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế. Trong bối cảnh Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức từ BĐKH và yêu cầu nâng cao hiệu quả thích ứng BĐKH đang trở nên cấp thiết, từ thực tiễn xây dựng và áp dụng thành công các CSTCC ở 3 nước G7 trên, các đề xuất, khuyến nghị trong bài viết sẽ là tư liệu tham khảo cần thiết trong việc xây dựng và hoàn thiện các CSTCC thích ứng BĐKH tại Việt Nam.
Tài liệu tham khảo
1. Climate Integrate, 2024, Japan Spending Plans for Climate and Energy,
https://climateintegrate.org/wp-content/uploads/2024/03/Japans-Spending-Plans-for-Climate-and-Energy-EN.pdf, (truy cập lần cuối ngày 23/09/2024).
2. Journalism for the energy transition, 2024, German government earmarks smaller budget for climate action in 2025, www.cleanenergywire.org/news/german-government-earmarks-smaller-budget-climate-action-2025.
3. Dao Thi Thieu Ha, Nguyen Minh Sang, 2023, Responses of Central banks to climate - related financial risks: Lesson for Vietnam, www.researchgate.net/publication/369475906.
4. Federal Ministry - for the Environment, Nature Conservation - Nuclear Safety and Consumer Protection, 2022, A strong partner in global nature conservation: Germany to increase international biodiversity finance to 1.5 billion euros per year by 2025, www.bmuv.de/en/pressrelease/a-strong-partner-in-global-nature-conservation-germany-to-increase-international-biodiversity-finance-to-15-billion-euros-per-year-by-2025.
5. HM Treasury, 2021, Autumn Budget and Spending Review 2021: A Stronger Economy for the British people, https://assets.publishing.service.gov.uk/government/uploads/system/uploads/attachment_data/file/1043689/Budget_AB2021_Web_Accessible.pdf.
6. HM Government, 2020, The Ten Point Plan for a Green Industrial Revolution, https://assets.publishing.service.gov.uk/media/5fb5513de90e0720978b1a6f/10_POINT_PLAN_BOOKLET.pdf.
7. Ministry of Foreign Affairs of Japan, 2020, Japan’s Renewed Commitment on Climate Finance 2021-25, https://www.mofa.go.jps/100200521.pdf.
8. Pham Thu Thuy, Nguyen Dinh Tien, Nguyen Thuy Anh, Nguyen Van Anh, Dao Thi Linh Chi, Hoang Tuan Long, 2020, Opportunities and Challenges for Innovative Financing Mechanisms for Climate Change Adaptation and Mitigation, 2021-2050, http://thuvienlamdong.org.vn:81/bitstream/DL_134679/18408/1/CTv177V36S042020001.pdf.
Phan Nhật Linh
Tin liên quan

Mở rộng đối tượng được giảm thuế giúp nền kinh tế sớm phục hồi, tăng trưởng
14:22 | 28/03/2025 Diễn đàn

Hiệu quả triển khai các ứng dụng quản lý hóa đơn điện tử
15:26 | 19/12/2024 Diễn đàn

Quản lý thuế thương mại điện tử tại Việt Nam: đánh giá chính sách và kiến nghị
11:06 | 02/12/2024 Diễn đàn

Quản lý thuế hoạt động thương mại điện tử: hạn chế pháp lý và đề xuất hoàn thiện
09:57 | 25/11/2024 Diễn đàn

Giải pháp nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế
09:09 | 18/11/2024 Diễn đàn

Bài 2: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế hộ kinh doanh ở Việt Nam
09:07 | 18/11/2024 Diễn đàn

Quản lý thuế hộ kinh doanh: kinh nghiệm quốc tế và một số giải pháp cho Việt Nam
08:57 | 11/11/2024 Diễn đàn

Bài 3: Sửa đổi quy định về biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thu kịp thời tiền nợ thuế vào NSNN
08:49 | 04/11/2024 Diễn đàn

Đề xuất 3 phương án xác định ngưỡng chịu thuế GTGT đối với hộ và cá nhân kinh doanh
08:48 | 04/11/2024 Diễn đàn

Bài 2: Thiết lập hành lang pháp lý về quản lý thuế thương mại điện tử, đảm bảo môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng
11:25 | 28/10/2024 Diễn đàn

Chuyển giá quyền sở hữu trí tuệ: bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ vụ kiện của Apple
08:51 | 28/10/2024 Diễn đàn

Quản lý hóa đơn điện tử: cần đồng bộ nhiều giải pháp
08:48 | 28/10/2024 Diễn đàn

Đánh giá sự hài lòng của DN về chất lượng dịch vụ của cơ quan thuế: kết quả từ thực tiễn áp dụng tại Cục Thuế TP Hà Nội
08:21 | 21/10/2024 Diễn đàn
Tin mới

Hải quan khu vực XI tích cực triển khai nhiệm vụ theo cơ cấu tổ chức bộ máy mới

Sau sắp xếp, tinh gọn bộ máy, Chi cục Thuế khu vực XIV vận hành ổn định

Manh mối lần ra "xưởng sản xuất ma túy" lớn nhất Việt Nam

Thuế khu vực III triển khai quy trình quản lý thuế theo tổ chức bộ máy mới

Từ 1/6/2025: hóa đơn phải có mã định danh cá nhân của người mua

(INFOGRAPHICS) Kết quả xuất nhập khẩu nổi bật trong 2 tháng đầu năm 2025
12:51 | 27/03/2025 Infographics

(Infographics) Tổng thu từ xuất nhập khẩu các tỉnh, thành vùng Tây Nguyên

(INFOGRAPHICS) Kim ngạch hơn 67 tỷ USD, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam
11:29 | 04/12/2024 Infographics

(INFOGRAPHICS): Tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp tham gia chương trình tự nguyện tuân thủ
16:30 | 06/12/2024 Infographics
