Facebook Twitter youtube Tiktok

Chuyển giá quyền sở hữu trí tuệ: bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ vụ kiện của Apple

Ngày 10/9/2024, Tòa án Công lý châu Âu (“ECJ”) đã đưa ra phán quyết về một vụ án thuế lớn liên quan đến hoạt động chuyển giá của Apple. Theo đó, ECJ đã ra lệnh cho Ireland thu hồi gần 14 tỷ Euro tiền thuế từ Apple do nộp thiếu trước đây. Đây cũng là một trong những phán quyết lớn nhất từ trước đến nay liên quan đến hành vi chuyển giá. Bài viết này phân tích cơ cấu định giá chuyển nhượng do Apple thiết lập liên quan đến Ireland và những cơ sở mà ECJ đã quyết định Apple phải nộp bổ sung các khoản thuế, từ đó gợi ý bài học kinh nghiệm hoạch định và giám sát hoạt động chuyển giá ở Việt Nam.
chuyen gia quyen so huu tri tue bai hoc kinh nghiem cho viet nam tu vu kien cua apple

Diễn biến vụ việc

Theo các tài liệu tòa án đã được công bố, Apple Inc., thực thể kinh doanh chính của tập đoàn, có hai pháp nhân liên quan được thành lập theo luật pháp Ireland (gọi chung là “các Công ty Ireland”), nhưng không có trụ sở tại Ireland nên không được coi là pháp nhân cư trú theo Luật DN của Ireland. Theo quan điểm của Ireland, các công ty này được quản lý hiệu quả tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Hoa Kỳ cũng không coi các công ty này là pháp nhân cư trú do không có hiện diện thương mại hay hoạt động kinh doanh. Vì vậy, các Công ty Ireland này không có cư trú thuế ở bất kỳ quốc gia nào, cho dù chi nhánh ở Ireland vẫn thực hiện các hoạt động mua sản phẩm của Apple từ các bên liên quan và độc lập, sau đó phân phối chúng đi khắp châu Âu, châu Á và châu Phi.

Theo thỏa thuận chuyển giá được cơ quan thuế Ireland chấp thuận thông qua “các phán quyết thuế” vào năm 1991 và 2007 (“Các Phán quyết”) về cách xác định lợi nhuận chịu thuế từ các hoạt động của Apple tại Ireland, tất cả các hoạt động tìm nguồn cung ứng và bán hàng không phải của Mỹ đều được thực hiện và lợi nhuận của công ty thuộc Tập đoàn Apple ở Ireland bị đánh thuế ở mức rất thấp (dưới 0,5%). Vì thế, Ủy ban châu Âu (EC) đã khởi xướng một cuộc điều tra nhằm xác định xem Ireland có cung cấp viện trợ nhà nước thông qua biện pháp ưu đãi thuế cho một số thực thể trong Tập đoàn Apple hay không.

Điều 107 (1) của Hiệp ước EC quy định: “ngoại trừ những quy định khác trong các hiệp ước, bất kỳ viện trợ nào được cấp bởi một quốc gia thành viên hoặc thông qua các nguồn lực của nhà nước dưới bất kỳ hình thức nào làm biến dạng hoặc đe dọa bóp méo cạnh tranh bằng cách ưu tiên cho một số DN hoặc sản xuất một số hàng hóa, trong chừng mực nó ảnh hưởng đến thương mại giữa các quốc gia thành viên”. Điều này đồng nghĩa, để một biện pháp thuế được coi là viện trợ nhà nước theo định nghĩa của Điều 107 (1) Hiệp ước EC, biện pháp thuế đó phải mang lại “lợi ích có chọn lọc” cho người nộp thuế. ECJ cũng đã xác định trước đó rằng, khi các quốc gia thành viên EU xác định cơ sở thuế của người nộp thuế theo cách không giống mức giá và điều kiện được áp dụng trong một tình hình cạnh tranh tự do thông qua thỏa thuận về giá chuyển nhượng của người nộp thuế, điều này có thể mang lại “lợi ích có chọn lọc” cho những người nộp thuế đó.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, EC chỉ phát hiện ra tình hình thuế của Apple vào tháng 5/2013 thông qua các phiên điều trần tại Thượng viện Hoa Kỳ. EC đã gửi thư cho Ireland để yêu cầu cung cấp thêm thông tin về thực tiễn phán quyết thuế của nước này vào ngày 12/6/2013. Sau khi cuộc điều tra hoàn tất, EC đã xác định rằng, Ireland thực sự đã cung cấp viện trợ nhà nước thông qua các biện pháp thuế. Theo đó, phán quyết không chỉ áp dụng luật thuế của Ireland mà còn cung cấp một chế độ thuế ưu đãi hơn cho Apple bằng cách chấp nhận tài sản trí tuệ của Apple không thể phân bổ cho các chi nhánh ở Ireland.

Trước phán quyết này, Ireland và Apple đã khởi kiện lên Tòa án Chung của EU và tòa án này đã ra phán quyết chống lại EC. Sau đó EC đã kháng cáo phán quyết của Tòa án Chung lên ECJ. Vào ngày 10/9/2024, ECJ đã ra quyết định có lợi cho EC, yêu cầu Ireland thu hồi khoản viện trợ nhà nước (tức là số thuế nộp thiếu) từ Apple.

Các lập luận liên quan đến chuyển giá

Theo quan điểm của EC, cơ quan thuế Ireland đã chấp nhận giả định rằng sở hữu trí tuệ (IP) của Apple được phát triển và sở hữu về mặt kinh tế bên ngoài Ireland, chứ không phải bởi các chi nhánh

Ireland. Điều đáng chú ý trong trường hợp này là IP của Apple cũng không được sở hữu bởi Apple Inc., hay bên ký kết Thỏa thuận chia sẻ chi phí (CSA) với các công ty tại Ireland; thay vào đó, một thực thể khác trong tập đoàn sở hữu toàn bộ IP này, chứ không phải Apple Inc., tuy nhiên cơ quan thuế Ireland cho rằng, dù thực thể nào trong Tập đoàn Apple phát triển IP, thì đó cũng không thuộc sở hữu của các chi nhánh Ireland.

Việc chấp nhận IP không thuộc về chi nhánh tại Ireland rõ ràng có tác động lớn đến việc xác định lợi nhuận của các chi nhánh này. Nếu các chi nhánh được coi là IP về mặt kinh tế thì lợi nhuận của họ sẽ được tính theo cách khác, chứ không phải dựa trên phương pháp cộng thêm chi phí (cost-plus).

EC cũng lập luận rằng, phương pháp mà cơ quan thuế Ireland áp dụng không phù hợp với kết quả dựa trên thị trường như luật của EU yêu cầu, cũng không phù hợp với luật thuế Ireland hay báo cáo năm 2010 của OECD về phân bổ lợi nhuận cho các cơ sở thường trú. Lý do chính khiến EC có quan điểm này là vì nó không phản ánh đúng thực tế về chức năng kinh doanh giữa trụ sở chính của các công ty Ireland và các chi nhánh. Theo EC, cơ quan thuế Ireland lẽ ra phải nhận ra rằng trụ sở chính của các công ty Ireland không có nhân viên hay nguồn lực, không có khả năng chịu rủi ro theo Thỏa thuận Chia sẻ chi phí với Apple Inc., đơn giản vì chúng chỉ tồn tại trên giấy tờ. Bản chất thực sự duy nhất của các công ty Ireland nằm ở các chi nhánh của họ tại Ireland. Vì vậy, EC kết luận, khi so sánh chức năng của trụ sở chính và chi nhánh, thì trụ sở chính không có chức năng nào, còn chi nhánh có đầy đủ chức năng của trụ sở chính.

Từ góc độ xác định phân bổ lợi nhuận dựa trên chức năng, tài sản và rủi ro giữa trụ sở chính và chi nhánh, giải pháp đúng theo Luật viện trợ nhà nước của EU, luật pháp Ireland và khuyến nghị của OECD là chi nhánh phải được phân bổ quyền sở hữu kinh tế đối với IP. EC cho rằng, nếu cơ quan thuế Ireland xem xét vấn đề theo cách này thì việc phân bổ lợi nhuận sẽ khác, vì chức năng, tài sản và rủi ro sẽ được phân bổ cho trụ sở chính.

Mặc dù vậy, theo lập luận của Tòa án Tổng quát và ECJ, thì Tòa án Chung đứng về phía Ireland và Apple và cho rằng, EC không đưa ra được bằng chứng nào cho thấy các chi nhánh Ireland chịu trách nhiệm phát triển toàn bộ IP. Phần lớn những đóng góp cho việc phát triển IP được thực hiện bởi Apple Inc. nằm ngoài Ireland, chứ không phải bởi các chi nhánh Ireland. Tuy nhiên, các chức năng, tài sản và rủi ro của Apple Inc., không nên được tính đến khi xác định việc phân bổ lợi nhuận giữa trụ sở chính và chi nhánh. Đây là một trong những lý do chính để EC kháng cáo: “kháng cáo chủ yếu xoay quanh câu hỏi liệu Tòa án Chung có được phép xem xét các chức năng hoạt động được thực hiện bởi Apple Inc., hay không?”.

Trên thực tế, Tòa án Chung đã tuyên bố trong quyết định của mình là phải kiểm tra, xem xét “việc phân bổ chức năng hoạt động, tài sản và rủi ro giữa chi nhánh và các bộ phận khác của công ty đó”, nhưng trong quá trình áp dụng bài kiểm tra, Tòa án đã bao gồm các chức năng hoạt động, tài sản và rủi ro của Apple Inc. Vì thế, ECJ đã đứng về phía EC và cho rằng, việc Tòa án Chung bao gồm các chức năng hoạt động do Apple Inc. thực hiện là trái với Luật thuế Ireland, nguyên tắc giá trị trường (“arms-length”) và nguyên tắc thực thể độc lập. Điều này cũng phù hợp với các hướng dẫn của OECD.

Xác định các khía cạnh chuyển giá của vụ việc

Lập luận của EC được hỗ trợ bởi các nguyên tắc về giá thị trường và nguyên tắc thực thể riêng biệt. Vấn đề này có thể được minh họa bằng ví dụ đơn giản sau.

Ba công ty độc lập riêng biệt có mục tiêu hợp tác trong việc sản xuất và tiếp thị sản phẩm: Công ty A thực hiện gần như toàn bộ hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), trong khi đó Công ty B và Công ty C lo sản xuất và tiếp thị các sản phẩm đó. Công ty A muốn Công ty B và Công ty C chia sẻ chi phí cho hoạt động phát triển sản phẩm để đổi lấy quyền đối với các sản phẩm đó. Công ty B và Công ty C đồng ý, nhưng chỉ có Công ty C hoạt động kinh doanh hiệu quả và có thể chia sẻ chi phí. Công ty B không có hoạt động kinh doanh và không thể trả phần chi phí của mình. Trong tình huống này, với tư cách là một DN độc lập, Công ty C (chi nhánh tại Ireland) sẽ không đồng ý cho Công ty B (trụ sở chính) được phân bổ quyền đối với các sản phẩm từ Công ty A (Apple Inc.) thay vì Công ty C.

Quyết định cuối cùng của ECJ dường như được hỗ trợ bởi quy tắc cơ bản rằng các chi nhánh nên được coi là các thực thể riêng biệt so với trụ sở chính của chúng và phải tuân theo nguyên tắc giá thị trường. Tiếp tục ví dụ đơn giản hóa tương tự ở trên, tiền của Công ty C đang sử dụng để chi trả cho 55% đến 60% chi phí phát triển IP. Nếu chúng ta coi điều này là khoản thanh toán cho các dịch vụ phát triển, thì Công ty C thực chất đã trả tiền cho Công ty A để có được IP. Dù cho Công ty A thực hiện chức năng gì, thì những chức năng đó phải được tính cho Công ty C, chứ không phải cho Công ty B. Công ty B không thể được hưởng lợi từ các chức năng của của Công ty A mà Công ty C đã chi trả. Trong các cuộc thương lượng giữa hai bên độc lập, Công ty B và Công ty C, sẽ rất khó hiểu rằng Công ty C (chi nhánh) sẽ chấp nhận việc cấp cho Công ty B (trụ sở chính của nó) phần lớn thu nhập từ việc bán sản phẩm chỉ vì Công ty B lập luận rằng phần lớn công việc không được thực hiện bởi Công ty C mà bởi Công ty A (Apple Inc.) được thanh toán bằng tiền của Công ty C.

Bài học cho việc định giá chuyển nhượng tại Việt Nam

Theo cách tiếp cận được ủy quyền của OECD, quyền sở hữu chính thức, hợp pháp đối với IP không phải là điều duy nhất khi xác định thực thể liên quan nào nắm giữ quyền sở hữu kinh tế đối với IP và có thể được mong hưởng lợi từ nó. Một DN liên kết ở nước ngoài sở hữu hợp pháp IP không có nghĩa là chi nhánh hoặc công ty con tại Việt Nam không thể nắm giữ toàn bộ hoặc một phần quyền sở hữu kinh tế. Điều này cũng có thể xảy ra nếu “các nhân tố quan trọng”, theo cách tiếp cận của OECD hiện diện tại Việt Nam.

Ví dụ, một chi nhánh tại Việt Nam có thể sở hữu một tài sản vô hình liên quan đến tiếp thị sau nhiều năm thực hiện tiếp thị một sản phẩm và đóng góp kinh nghiệm, trí tuệ và nguồn lực quý giá. Lý do là vì một nhãn hiệu được sở hữu hợp pháp chính thức bởi một công ty liên kết ở nước ngoài không có nghĩa là một số quyền sở hữu kinh tế không được phát triển tại Việt Nam.

Việc ECJ chú ý đến nơi thực sự có nhân sự làm việc và thực sự hoạt động cũng là một lời nhắc nhở cho hoạt động định giá chuyển nhượng tại Việt Nam, rằng quyền sở hữu hợp pháp hoàn toàn đứng tên các thực thể liên kết nước ngoài, mà các công ty “trống rỗng” không có nhân viên, hoạt động hoặc không có hoạt động có thể không phải lúc nào cũng được chấp nhận cho mục đích thuế trong một số trường hợp nhất định.

Hiện Nghị định số 132/2020/NĐ-CP ngày 5/11/2020 quy định về quản lý thuế đối với DN có giao dịch liên kết đang được Việt Nam sửa đổi theo hướng đề cao “bản chất” của một giao dịch để xác định số thuế phát sinh, trong đó quy định “thực tế của các hoạt động kinh doanh” cần được so sánh với các tài liệu bằng văn bản do người nộp thuế cung cấp. Trong trường hợp có sự khác biệt, “nội dung và thực tế của các hoạt động kinh doanh và rủi ro mà các bên liên quan gánh chịu sẽ lớn hơn các thỏa thuận bằng văn bản”.

Thông tin tác giả:
Edwin Vanderbruggen - là một chuyên gia về thuế quốc tế và là học giả, giảng viên tại Trung tâm Thuế Quốc tế ở Leyden (Hà Lan), IPO của Đại học UFSIA (Bỉ), Đại học Handelshogeschool (Bỉ), Đại học Chulalongkorn (Thái Lan), Đại học Assumption (Thái Lan), CFVG và giảng viên thỉnh giảng tại Trường Đại học Ngoại thương (Việt Nam).

Tài liệu tham khảo

1. Phán quyết của Tòa án (Đại phòng) ngày 10/9/2024, Ủy ban châu Âu kiện Ireland và Apple Sales International, Vụ án C-465/20 P, ECLI:EU:C:2024:724.
2. Phán quyết (EU) 2017/1283 ngày 30/8/2016.
3. Điều 107 (1) của Hiệp ước EC.
4. Vụ kiện của Bỉ và Forum 187 chống lại Ủy ban (C-182/03 và C-217/03) ngày 22/6/2006 (EU:C:2006:416).
5. Vụ kiện Ủy ban chống lại Ireland/Apple.
6. Tòa án Chung của Liên minh châu Âu ngày 15/7/2020, Vụ kiện Ireland và những vụ kiện khác. Ủy ban (T-778/16 và T-892/16 EU:T:2020:338).
7. Báo cáo năm 2010 về việc phân bổ lợi nhuận cho các cơ sở thường trú, OECD, Paris, ngày 22/7/2010.
8. Nghị định số 132/2020/NĐ-CP, ngày 5/11/2020.

Edwin Vanderbruggen

Tin liên quan

Mở rộng đối tượng được giảm thuế giúp nền kinh tế sớm phục hồi, tăng trưởng

Mở rộng đối tượng được giảm thuế giúp nền kinh tế sớm phục hồi, tăng trưởng

Theo ông Nguyễn Văn Được, Tổng giám đốc Công ty TNHH Kế toán và Tư vấn Thuế Trọng Tín, việc mở rộng đối tượng giảm thuế giá trị gia tăng (GTGT) 2% không chỉ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, người tiêu dùng mua được nhiều hàng hóa với giá rẻ hơn mà còn góp phần đưa nền kinh tế sớm phục hồi, tăng trưởng.
Hiệu quả triển khai các ứng dụng quản lý hóa đơn điện tử

Hiệu quả triển khai các ứng dụng quản lý hóa đơn điện tử

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách phát triển kinh tế xã hội, đạt những kết quả tích cực, góp phần thực hiện các mục tiêu tăng trưởng bền vững, phát triển kinh tế, ổn định xã hội và đảm bảo an ninh quốc gia.
Quản lý thuế thương mại điện tử tại Việt Nam:  đánh giá chính sách và kiến nghị

Quản lý thuế thương mại điện tử tại Việt Nam: đánh giá chính sách và kiến nghị

Khi thương mại điện tử (TMĐT) được nhận định là xu hướng tất yếu của các giao dịch trong nền kinh tế số thì pháp luật về TMĐT hoặc giao dịch điện tử đã được 158 quốc gia thông qua, trong đó có 79 quốc gia đang phát triển và 29 quốc gia kém phát triển nhất (UNCTAD, 2024).
Quản lý thuế hoạt động thương mại điện tử: hạn chế pháp lý và đề xuất hoàn thiện

Quản lý thuế hoạt động thương mại điện tử: hạn chế pháp lý và đề xuất hoàn thiện

Trong thời gian qua, sự phát triển của công nghệ đã giúp thị trường thương mại điện tử (TMĐT) Việt Nam ngày càng mở rộng, trở thành phương thức kinh doanh phổ biến và quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế số quốc gia. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng đặt ra nhiều thách thức với công tác quản thuế. Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp lý về quản lý thuế TMĐT, bài viết sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế lĩnh vực này.
Giải pháp  nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế

Giải pháp nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế

Tuân thủ thuế có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cả cơ quan thuế và người nộp thuế (NNT), bởi việc đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế và tuân thủ công tác báo cáo thuế mang lại nhiều hiệu quả trong sử dụng và quản lý, như giảm thời gian làm thủ tục hành chính thuế, giảm chi phí cho DN và khắc phục tình trạng làm giả mạo, tiết kiệm chi phí xã hội và nâng cao ý thức NNT. Bài viết sử dụng số liệu thứ cấp giai đoạn 2017-2023 của Tổng cục Thuế bằng phương pháp thống kê, so sánh và khảo sát, để tập trung đánh giá, phân tích thực trạng, từ đó đề xuất biện pháp trong thời gian tới.
Bài 2: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế  hộ kinh doanh ở Việt Nam

Bài 2: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế hộ kinh doanh ở Việt Nam

Đối chiếu với kinh nghiệm của thế giới có thể thấy, thời gian qua, ngành Thuế Việt Nam đã không ngừng nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tập trung xây dựng các ứng dụng công nghệ thông tin... nhằm tăng cường công tác quản lý thuế đối với hộ, cá nhân kinh doanh (H-CNKD). Mặc dù vậy, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế lĩnh vực này, đảm bảo đáp ứng các yêu cầu cải cách hệ thống thuế và theo đúng lộ trình chuyển đổi số nền kinh tế, cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện cả về thể chế và phương thức quản lý.
Thuế với biến đổi khí hậu: kinh nghiệm tại một số nước G7 và khuyến nghị cho Việt Nam

Thuế với biến đổi khí hậu: kinh nghiệm tại một số nước G7 và khuyến nghị cho Việt Nam

Biến đổi khí hậu (BĐKH) đã và đang ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển kinh tế, xã hội, môi trường của các quốc gia trên thế giới. Vì thế, trong những thập niên vừa qua, các nước, đặc biệt là nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7) đều rất coi trọng việc xây dựng và thực thi kế hoạch tài chính khí hậu thông qua các chính sách tài chính công (CSTCC) nhằm tận dụng những cơ hội có lợi và giảm thiểu rủi ro, từ đó phát huy nguồn lực của toàn xã hội trong thích ứng BĐKH.
Quản lý thuế hộ kinh doanh: kinh nghiệm quốc tế và một số giải pháp cho Việt Nam

Quản lý thuế hộ kinh doanh: kinh nghiệm quốc tế và một số giải pháp cho Việt Nam

Với khoảng 5,5 triệu hộ kinh doanh (HKD) đang hoạt động trong nền kinh tế, công tác quản lý thuế nhóm đối tượng này luôn chiếm nhiều thời gian, nguồn lực của cơ quan thuế, song kết quả thu được lại chưa tương xứng. Nhằm tìm ra “kế sách” để cải thiện tình hình, thời gian qua, ngành Thuế đã triển khai nhiều đề án nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế đối với HKD. Góp phần vào nỗ lực này, trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới và đánh giá thực tế áp dụng tại Việt Nam, chuyên đề “Quản lý thuế hộ kinh doanh: kinh nghiệm quốc tế và một số giải pháp cho Việt Nam” của Tạp chí Thuế sẽ gợi mở, đề xuất một số giải pháp với cơ quan quản lý.
Bài 3: Sửa đổi quy định về biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thu kịp thời tiền nợ thuế vào NSNN

Bài 3: Sửa đổi quy định về biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thu kịp thời tiền nợ thuế vào NSNN

Cưỡng chế nợ thuế là một giải pháp quan trọng của công tác quản lý nợ thuế, nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và công bằng trong thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN của người nộp thuế. Tuy vậy, thời gian qua, việc thực hiện biện pháp cưỡng chế nợ tại các cơ quan thuế đang gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Với phương châm “giảm một đồng nợ thuế là tăng thu một đồng cho NSNN để phục hồi, phát triển kinh tế”, tại dự thảo Luật Quản lý thuế sửa đổi, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi quy định về biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, nhằm tháo gỡ vướng mắc về cơ chế chính sách, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý thuế.
Đề xuất 3 phương án xác định ngưỡng chịu thuế GTGT đối với hộ và cá nhân kinh doanh

Đề xuất 3 phương án xác định ngưỡng chịu thuế GTGT đối với hộ và cá nhân kinh doanh

Trong những ngày gần đây, trên các diễn đàn kinh tế, nhiều chuyên gia đề xuất nên điều chỉnh mức doanh thu chịu thuế GTGT mới đối với hộ và cá nhân kinh doanh là 200 triệu đồng (thay mức hiện hành 100 triệu đồng), một số chuyên gia khác thì kiến nghị áp mức doanh thu mới lên 300 triệu đồng/năm... Để có cơ sở khoa học và tính thuyết phục cho vấn đề này, nhóm chuyên gia Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội đã tiến hành nghiên cứu và đề xuất 3 phương án xác định ngưỡng chịu thuế GTGT đối với hộ và cá nhân kinh doanh trong thời gian tới.
Bài 2: Thiết lập hành lang pháp lý về quản lý thuế thương mại điện tử, đảm bảo môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng

Bài 2: Thiết lập hành lang pháp lý về quản lý thuế thương mại điện tử, đảm bảo môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng

(TCT online) -Khi hoạt động thương mại điện tử (TMĐT) và kinh doanh dựa trên nền tảng số được xác định là xu hướng tất yếu của nền kinh tế số thì cần thiết phải xây dựng, thiết lập hành lang pháp lý đầy đủ cho lĩnh vực này, nhằm đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, minh bạch trên môi trường kinh doanh. Theo hướng này, nhiều quy định tại các điều, khoản của Luật Quản lý thuế đã được cập nhật để sửa đổi bổ sung cho phù hợp với thực tiễn công tác quản lý...
Quản lý hóa đơn điện tử: cần đồng bộ nhiều giải pháp

Quản lý hóa đơn điện tử: cần đồng bộ nhiều giải pháp

Tóm tắt: Việc chuyển đổi từ hóa đơn giấy sang hóa đơn điện tử (HĐĐT) là nhu cầu tất yếu, khách quan trong cải cách lĩnh vực thuế, nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước, giúp cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng công bằng, minh bạch, đồng thời thúc đẩy phát triển nền kinh tế số. Tuy nhiên, một số tổ chức, cá nhân đã lợi dụng kẽ hở của pháp luật để phát hành và sử dụng HĐĐT trái pháp luật hòng gian lận thuế, chiếm đoạt NSNN. Để ngăn chặn tình trạng này, các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng chống gian lận HĐĐT qua cơ chế quản lý rủi ro (QLRR) đã được đặt ra, tuy nhiên mức độ đến đâu thì vẫn cần phải bàn thảo thêm.
Đánh giá sự hài lòng của DN về chất lượng dịch vụ của cơ quan thuế: kết quả từ thực tiễn áp dụng tại Cục Thuế TP Hà Nội

Đánh giá sự hài lòng của DN về chất lượng dịch vụ của cơ quan thuế: kết quả từ thực tiễn áp dụng tại Cục Thuế TP Hà Nội

Nâng cao chất lượng dịch vụ thuế, hướng tới sự hài lòng của người nộp thuế (NNT) là một trong những nội dung quan trọng đang được ngành Thuế triển khai. Đây cũng là đề tài đã có nhiều nghiên cứu, song chưa có nghiên nào xuất phát từ quan điểm của DN theo các nội dung đưa ra của Tổng cục Thuế. Để nhận biết được ý kiến của DN đối với dịch vụ này, tác giả đã tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng về sự hài lòng của DN đối với chất lượng dịch vụ hỗ trợ thuế tại Cục Thuế TP Hà Nội, từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ hỗ trợ thuế cho DN trong thời gian tới.
Xem thêm
cty-tan-hiep-phat
peugeot-viet-nam
cty-tan-hiep-phat
peugeot-viet-nam
cty-lien-thai-binh-duong-ippg-1-thang-dien-dan-hq-dn-tu-12-9-2024-den-12-10-2024-kt-300x250

Tin mới

Hải quan khu vực XI tích cực triển khai nhiệm vụ theo cơ cấu tổ chức bộ máy mới

Hải quan khu vực XI tích cực triển khai nhiệm vụ theo cơ cấu tổ chức bộ máy mới

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) của doanh nghiệp (DN) và người khai hải quan, Chi cục Hải quan khu vực XI đang tích cực triển khai nhiệm vụ theo cơ cấu tổ chức bộ máy mới.
Sau sắp xếp, tinh gọn bộ máy, Chi cục Thuế khu vực XIV  vận hành ổn định

Sau sắp xếp, tinh gọn bộ máy, Chi cục Thuế khu vực XIV vận hành ổn định

Sau sắp xếp, tinh gọn bộ máy, Chi cục Thuế khu vực XIV đã đi vào hoạt động ổn định và hướng đến mục tiêu phục vụ người nộp thuế tốt hơn.
Manh mối lần ra "xưởng sản xuất ma túy" lớn nhất Việt Nam

Manh mối lần ra "xưởng sản xuất ma túy" lớn nhất Việt Nam

Tại nhà xưởng xuất ma túy ở TP Nha Trang (Khánh Hòa), lực lượng chức năng thu giữ tới 1,4 tấn ketamin với độ tinh khiết rất cao, gần 80 tấn hoá chất.
Thuế khu vực III triển khai quy trình quản lý thuế theo tổ chức bộ máy mới

Thuế khu vực III triển khai quy trình quản lý thuế theo tổ chức bộ máy mới

Chi cục Thuế khu vực III quyết tâm xây dựng nền hành chính thuế hiện đại, minh bạch, chuyên nghiệp, hoạt động hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả
Từ 1/6/2025: hóa đơn phải có mã định danh cá nhân của người mua

Từ 1/6/2025: hóa đơn phải có mã định danh cá nhân của người mua

Từ 1/6/2025, nội dung trên hóa đơn phải có thêm thông tin về mã định danh cá nhân của người mua hoặc mã số đơn vị có quan hệ với ngân sách.
(INFOGRAPHICS) Kết quả xuất nhập khẩu nổi bật trong 2 tháng đầu năm 2025

(INFOGRAPHICS) Kết quả xuất nhập khẩu nổi bật trong 2 tháng đầu năm 2025

Hết tháng 2/2025 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 127,07 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước.
(Infographics) Tổng thu từ xuất nhập khẩu các tỉnh, thành vùng Tây Nguyên

(Infographics) Tổng thu từ xuất nhập khẩu các tỉnh, thành vùng Tây Nguyên

Số thu NSNN từ hoạt động XNK các tỉnh vùng Tây Nguyên 11 tháng đầu năm 2024 đạt 896,84 tỷ đồng, đạt 106,14% dự toán, chiếm 0,23% số thu toàn Ngành.
(INFOGRAPHICS) Kim ngạch hơn 67 tỷ USD, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam

(INFOGRAPHICS) Kim ngạch hơn 67 tỷ USD, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam

Hàn Quốc hiện là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam.
(INFOGRAPHICS): Tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp tham gia chương trình tự nguyện tuân thủ

(INFOGRAPHICS): Tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp tham gia chương trình tự nguyện tuân thủ

Tổng cục Hải quan ban hành Quyết định số 2790/QĐ-TCHQ về việc ban hành Chương trình khuyến khích doanh nghiệp tự nguyện tuân thủ pháp luật hải quan.
(INFOGRAPHICS) Tổng thu từ XNK các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ

(INFOGRAPHICS) Tổng thu từ XNK các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ

11 tháng đầu năm, số thu NSNN từ hoạt động XNK các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đạt 54.898,78 tỷ đồng, bằng 122,31% dự toán, chiếm 14,27% số thu toàn Ngành.
Phiên bản di động