Facebook Twitter youtube Tiktok

Bài 3: Sửa đổi quy định về biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thu kịp thời tiền nợ thuế vào NSNN

Cưỡng chế nợ thuế là một giải pháp quan trọng của công tác quản lý nợ thuế, nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và công bằng trong thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN của người nộp thuế. Tuy vậy, thời gian qua, việc thực hiện biện pháp cưỡng chế nợ tại các cơ quan thuế đang gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Với phương châm “giảm một đồng nợ thuế là tăng thu một đồng cho NSNN để phục hồi, phát triển kinh tế”, tại dự thảo Luật Quản lý thuế sửa đổi, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi quy định về biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, nhằm tháo gỡ vướng mắc về cơ chế chính sách, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý thuế.
bai 3 sua doi quy dinh ve bien phap cuong che de dam bao thu kip thoi tien no thue vao nsnn

Nỗ lực rất lớn, nhưng kết quả chưa như kỳ vọng

Thống kê của Tổng cục Thuế cho biết, trong 10 tháng của năm 2024, số thu tiền thuế nợ năm trước chuyển sang ước đạt 58.143 tỷ đồng, tăng 32,8% so với cùng kỳ năm 2023. Theo bà Đỗ Thị Hồng Minh, Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế (Tổng cục Thuế), để đạt được kết quả này, toàn ngành Thuế đã quyết liệt thực hiện các giải pháp tăng cường thu hồi nợ thuế. Cùng với việc tích cực tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật về nợ thuế để nâng cao tính tuân thủ, khuyến khích người nộp thuế tự nguyện, tự giác thực hiện các quy định nộp thuế, Tổng cục Thuế đã tổ chức tập huấn, hướng dẫn thực hiện Quy trình quản lý nợ và Quy trình cưỡng chế nợ thuế cho công chức làm công tác quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế. Cơ quan thuế các cấp còn tăng cường rà soát, phân loại, phân tích nguyên nhân nợ của từng đối tượng nợ để áp dụng biện pháp thu nợ phù hợp. Đồng thời, thực hiện giao chỉ tiêu thu nợ, chuẩn hóa dữ liệu nợ; đẩy mạnh điện tử hóa việc ban hành thông báo nợ thuế, ban hành quyết định cưỡng chế nợ thuế…; tăng cường thực hiện biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đối với người nộp thuế theo quy định, nhất là các trường hợp người nộp thuế bỏ địa chỉ kinh doanh. Đặc biệt, cơ quan thuế các cấp đã cương quyết thực hiện cưỡng chế nợ thuế (thông qua trính tiền từ tài khoản, thông báo hóa đơn không còn giá trị sử dụng...) đối với các trường hợp chây ỳ, có dấu hiệu tẩu tán tài sản, bỏ trốn; cũng như phối hợp với các cơ quan báo chí đăng công khai thông tin người nộp thuế nợ thuế…

Mặc dù nỗ lực rất lớn, nhưng hiệu quả mang lại chưa như kỳ vọng khi số nợ thuế vẫn liên tục tăng. Phân tích nguyên nhân, bà Đỗ Thị Hồng Minh cho biết, Điều 125 Luật Quản lý thuế số 38 quy định, các biện pháp cưỡng chế nợ thuế phải thực hiện tuần tự theo thứ tự, gồm: trích tiền từ tài khoản của người bị cưỡng chế nợ thuế tại kho bạc, ngân hàng, hoặc các tổ chức tín dụng khác; phong toả tài khoản; dừng làm thủ tục hải quan cho hàng xuất, nhập khẩu; ngừng sử dụng hoá đơn; kê biên và bán đấu giá tài sản kê biên; thu tiền, tài sản khác của người bị cưỡng chế nợ thuế do cơ quan/tổ chức/cá nhân nắm giữ… Tuy nhiên trên thực tế, trong 7 biện pháp cưỡng chế này, thì biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản và thu nợ qua bên thứ 3 mang lại hiệu quả chưa cao và rất khó thực thiện. Cụ thể, biện pháp kê biên tài sản thường mới chỉ dừng lại ở bước xác minh thông tin, còn biện pháp thu bên thứ 3 mới chỉ được thực hiện trong một số trường hợp do bên thứ 3 có khoản nợ đến hạn phải trả người nộp thuế. “Khi cơ quan thuế thực hiện xác minh thông tin, thì người nộp thuế và các đơn vị liên quan không cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin không có tài sản. Trường hợp có thông tin về tài sản, thì hầu hết tài sản của người nộp thuế lại đang được thế chấp tại các tổ chức tín dụng. Cơ quan thuế không chỉ khó xác định quyền sở hữu tài sản của đối tượng nộp thuế để cưỡng chế, mà việc xác định giá trị tài sản cũng rất khó thực hiện” - bà Hồng Minh thông tin.

Chưa kể, do không có chức năng định giá, nên cơ quan thuế chỉ có thể xác định được giá trị tài sản nếu tài sản kê biên là tiền mặt (đồng Việt Nam, ngoại tệ ...), kim loại quý... Còn với tài sản là nhà xưởng, phương tiện vận tải, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hàng hóa, thì cơ quan thuế không ước định được giá trị, nên không xác định được giá trị tài sản kê biên có tương đương với khoản tiền thuế nợ của người nộp thuế và chi phí cưỡng chế hay không. Đó là chưa nói đến việc để thực hiện biện pháp này lại phụ thuộc rất nhiều vào các đơn vị liên quan. Bản thân cơ quan thuế cũng cần phải có kho bãi, nhân lực để cất giữ, bảo quản số tài sản (máy móc, thiết bị, hàng hóa) kê biên trước khi đem ra đấu giá, xử lý hao hụt, mất mát, hư hỏng. Do vậy, việc thực hiện biện pháp này rất phức tạp và mất nhiều thời gian, công sức và chi phí.

Bên cạnh đó, các quy định mang tính chất định tính như “một số biện pháp”, “không hiệu quả”, khiến cơ quan thuế rất khó xác định và thực hiện. Quy định hiện hành cũng chưa có nguyên tắc đối với người nộp thuế có hành vi phát tán tài sản hoặc bỏ trốn thì có thể lựa chọn áp dụng ngay biện pháp cưỡng chế phù hợp trong 7 biện pháp cưỡng chế để kịp thời thu tiền nợ thuế cho NSNN.

Từ thực tế các khó khăn vướng mắc này, nhiều ý kiến cho rằng, cần phải quy định rõ hơn về việc cơ quan thuế phải có đầy đủ thông tin, điều kiện thì mới thực hiện biện pháp kê biên tài sản và thu bên thứ 3 để tránh lãng phí thời gian, nguồn lực và chi phí cưỡng chế, góp phần nâng cao hiệu quả công tác cưỡng chế thu nợ thuế.

Theo ông Nguyễn Văn Được, Ủy viên Ban chấp hành Hội Tư vấn thuế Việt Nam, Tổng giám đốc Công ty TNHH Kế toán và tư vấn thuế Trọng Tín, công tác quản lý nợ thuế thời gian qua đã được cải thiện đáng kể qua số thu hồi nợ cho ngân sách, tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn nhìn nhận rõ một số hạn chế. Điểm then chốt khiến công tác quản lý nợ thuế chưa đạt hiệu quả cao xuất phát từ cơ chế chính sách về các biện pháp cưỡng chế nợ thuế còn rườm rà, phức tạp, chưa linh động và chưa thực sự phù hợp. Điều đó cho thấy sự cần thiết phải sửa đổi Luật Quản lý thuế về nội dung này. “Thực tế hiện nay, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản và biện pháp thu bên thứ 3 rất khó thực hiện và không có hiệu quả. Bởi lẽ, muốn thực hiện được các biện pháp này cần phải xác minh không chỉ thông tin của người nộp thuế mà còn là các thông tin về tài sản, chủ nợ, các khoản nợ khá phức tạp, sau đó mới có cơ sở để thực hiện. Bên cạnh đó, nhiều tài sản của người nộp thuế được đảm bảo, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh tại các tổ chức tín dụng hoặc bên thứ 3. Theo quy định tại Điều 297 và Điều 308 Bộ luật Dân sự 2015 về thứ tự ưu tiên thanh toán thuộc về bên nhận đảm bảo, tức là nghĩa vụ thuế không được ưu tiên thanh toán trong trường hợp này. Ngoài ra, các tài sản của người nộp thuế có thể liên quan đến bên thứ 3 là đồng sở hữu nên việc giải quyết thu hồi nợ thuế phải đảm bảo quyền của các chủ thể này dẫn đến việc thu hồi nợ thuế kém hiệu quả” - ông Được dẫn chứng.

Cũng theo ông Được, các chi phí thu thuế để thực hiện các biện pháp nêu trên là khá cao do phải tổ chức các bước gây mất thời gian, cũng như cần phải có kho bãi, điều kiện quản lý, định giá, thanh lý, nhượng bán, đấu giá tài sản khá phức tạp, trong khi số thu về đôi khi lại không tương xứng. “Tôi cho rằng, cần phải xem xét sửa đổi, bổ sung các biện pháp cưỡng chế nợ thuế nhằm đảm bảo tính linh hoạt và phù hợp với thực tiễn, từ đó đem lại hiệu quả, hiệu lực cho công tác quản lý thu hồi nợ thuế” - ông Được nhấn mạnh.

Giải pháp nâng cao hiệu quả cưỡng chế thu nợ thuế

Để tháo gỡ các vướng mắc này, tại dự thảo Luật Quản lý thuế sửa đổi, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung Khoản 3 Điều 125 theo hướng cơ quan thuế được linh hoạt áp dụng đồng thời các biện pháp cưỡng chế. Trường hợp có đầy đủ thông tin, điều kiện thì áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản và thu bên thứ 3. Trường hợp người nợ thuế có hành vi phát tán tài sản hoặc bỏ trốn, thì áp dụng ngay các biện pháp cưỡng chế phù hợp để đảm bảo thu kịp thời tiền thuế nợ vào NSNN. Cụ thể, tại Khoản 9, Điều 6 dự thảo Luật Quản lý thuế sửa đổi bổ sung Điểm b, Điểm c và Điểm d vào Khoản 3 Điều 125 Luật hiện hành theo hướng “Đối với các biện pháp cưỡng chế quy định tại các Điểm d, đ, e và g Khoản 1 Điều này, trường hợp không áp dụng được biện pháp cưỡng chế trước thì cơ quan quản lý thuế chuyển sang áp dụng biện pháp cưỡng chế sau; biện pháp cưỡng chế quy định tại các Điểm đ, e Khoản 1 Điều này (tức là kê biên tài sản, thu của bên thứ 3) được áp dụng khi cơ quan quản lý thuế có đầy đủ thông tin, điều kiện để thực hiện cưỡng chế. Trường hợp quyết định cưỡng chế chưa hết hiệu lực mà cơ quan quản lý thuế có đủ thông tin, điều kiện để áp dụng biện pháp cưỡng chế khác quy định tại Khoản 1 Điều này thì có thể đồng thời thực hiện áp dụng các biện pháp cưỡng chế đó. Trường hợp người nộp thuế có tiền thuế nợ có hành vi phát tán tài sản hoặc bỏ trốn thì người có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế phù hợp để đảm bảo thu kịp thời tiền thuế nợ vào NSNN”.

Theo bà Đỗ Thị Hồng Minh, những nội dung đề xuất này khắc phục được những khó khăn, bất cập trong thực tế triển khai thực hiện các biện pháp cưỡng chế, nâng cao hiệu quả của công tác cưỡng chế thu hồi nợ thuế. Đồng thời, tăng tính linh hoạt nhưng vẫn ưu tiên biện pháp thu được tiền mặt về cho NSNN.

Trong phiên thảo luận tại Tổ về Dự án 1 luật sửa 7 luật trong lĩnh vực tài chính theo chương trình Kỳ họp thứ 8 diễn ra ngày 29/10/2024, Đại biểu Quốc hội Trần Thị Vân (Bắc Ninh) nhất trí với quy định như dự thảo. Theo Đại biểu, việc quy định rõ cơ quan quản lý thuế phải có đầy đủ thông tin, điều kiện thì mới thực hiện cưỡng chế bằng biện pháp thu bên thứ 3 và kê biên tài sản để tránh lãng phí thời gian, nguồn lực, kinh phí và nâng cao hiệu quả công tác cưỡng chế thu nợ thuế. Việc quy định cơ quan thuế được linh hoạt áp dụng đồng thời các biện pháp cưỡng chế như kê biên tài sản, thu bên thứ 3 và ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế phù hợp sẽ đảm bảo thu kịp thời tiền nợ thuế vào NSNN; tránh lãng phí thời gian, nguồn lực và chi phí cho cưỡng chế; đồng thời nâng cao hiệu quả cưỡng chế thu nợ thuế, khắc phục được những bất cập, khó khăn hiện nay.

Phân tích thêm ở góc độ DN, ông Nguyễn Văn Được cho rằng, việc bổ sung quy định cơ quan thuế được quyền linh hoạt áp dụng các biện pháp cưỡng chế nợ thuế nếu phát hiện người nộp thuế có hành vi phát tán tài sản hoặc bỏ trốn là hợp lý để đảm bảo tránh thất thu ngân sách. Tuy nhiên, Luật cũng cần dự liệu và bổ sung thêm các biện pháp cưỡng chế, như việc phong tỏa tài khoản cần được gửi đến tất cả các tổ chức tín dụng thay vì chỉ gửi đến các tổ chức tín dụng mà người nộp thuế khai báo như hiện nay... Mặt khác, cần xem xét bổ sung các trường hợp được gia hạn nộp nợ thuế để giải quyết các trường hợp thực sự khó khăn trong ngắn hạn, tạo điều kiện, động lực cho người nộp thuế có cơ hội phục hồi hoạt động, đảm bảo hoàn thành được nghĩa vụ thuế và duy trì nguồn thu ngân sách trong dài hạn.

Đảm bảo bình đẳng trong thực thi các biện pháp quản lý nợ thuế
Luật Quản lý thuế hiện hành quy định người nộp thuế thuộc trường hợp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài trước khi xuất cảnh từ Việt Nam phải hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế. Trường hợp chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế, thì bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật về xuất cảnh, nhập cảnh. Tuy nhiên, trong khi Khoản 1 Điều 2 Luật Quản lý thuế quy định người nộp thuế bao gồm cả tổ chức và cá nhân, thì Khoản 7 Điều 124 Luật này lại quy định chỉ cá nhân là người đại diện theo pháp luật của DN bị tạm hoãn xuất cảnh nếu chưa hoàn thành nghĩa vụ thuế, là chưa phù hợp và thiếu công bằng. Bởi việc áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh cần được thực hiện đối với tất cả các chủ thể vi phạm, bao gồm cả cá nhân người nộp thuế và các cá nhân khác là đại diện theo pháp luật của tổ chức nộp thuế (chủ hộ kinh doanh, cá nhân là người đại diện theo pháp luật của DN, cá nhân là người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, cá nhân kinh doanh).
Để khắc phục bất cập này, tại dự thảo Luật Quản lý thuế sửa đổi, Bộ Tài chính đề xuất sửa đổi, bổ sung Khoản 1 Điều 66 về hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế trong trường hợp xuất cảnh và bãi bỏ Khoản 7 Điều 124 nhằm đảm bảo hệ thống pháp luật đối xử công bằng, bình đẳng đối với tất cả người nộp thuế mà chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế với NSNN, qua đó tăng tính tuân thủ pháp luật thuế, nâng cao hiệu quả thu nợ thuế.

Thúy Nga

Tin liên quan

Mở rộng đối tượng được giảm thuế giúp nền kinh tế sớm phục hồi, tăng trưởng

Mở rộng đối tượng được giảm thuế giúp nền kinh tế sớm phục hồi, tăng trưởng

Theo ông Nguyễn Văn Được, Tổng giám đốc Công ty TNHH Kế toán và Tư vấn Thuế Trọng Tín, việc mở rộng đối tượng giảm thuế giá trị gia tăng (GTGT) 2% không chỉ giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, người tiêu dùng mua được nhiều hàng hóa với giá rẻ hơn mà còn góp phần đưa nền kinh tế sớm phục hồi, tăng trưởng.
Hiệu quả triển khai các ứng dụng quản lý hóa đơn điện tử

Hiệu quả triển khai các ứng dụng quản lý hóa đơn điện tử

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách phát triển kinh tế xã hội, đạt những kết quả tích cực, góp phần thực hiện các mục tiêu tăng trưởng bền vững, phát triển kinh tế, ổn định xã hội và đảm bảo an ninh quốc gia.
Quản lý thuế thương mại điện tử tại Việt Nam:  đánh giá chính sách và kiến nghị

Quản lý thuế thương mại điện tử tại Việt Nam: đánh giá chính sách và kiến nghị

Khi thương mại điện tử (TMĐT) được nhận định là xu hướng tất yếu của các giao dịch trong nền kinh tế số thì pháp luật về TMĐT hoặc giao dịch điện tử đã được 158 quốc gia thông qua, trong đó có 79 quốc gia đang phát triển và 29 quốc gia kém phát triển nhất (UNCTAD, 2024).
Quản lý thuế hoạt động thương mại điện tử: hạn chế pháp lý và đề xuất hoàn thiện

Quản lý thuế hoạt động thương mại điện tử: hạn chế pháp lý và đề xuất hoàn thiện

Trong thời gian qua, sự phát triển của công nghệ đã giúp thị trường thương mại điện tử (TMĐT) Việt Nam ngày càng mở rộng, trở thành phương thức kinh doanh phổ biến và quan trọng trong tiến trình phát triển kinh tế số quốc gia. Tuy nhiên, sự phát triển này cũng đặt ra nhiều thách thức với công tác quản thuế. Trên cơ sở đánh giá thực trạng pháp lý về quản lý thuế TMĐT, bài viết sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế lĩnh vực này.
Giải pháp  nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế

Giải pháp nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế

Tuân thủ thuế có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cả cơ quan thuế và người nộp thuế (NNT), bởi việc đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế và tuân thủ công tác báo cáo thuế mang lại nhiều hiệu quả trong sử dụng và quản lý, như giảm thời gian làm thủ tục hành chính thuế, giảm chi phí cho DN và khắc phục tình trạng làm giả mạo, tiết kiệm chi phí xã hội và nâng cao ý thức NNT. Bài viết sử dụng số liệu thứ cấp giai đoạn 2017-2023 của Tổng cục Thuế bằng phương pháp thống kê, so sánh và khảo sát, để tập trung đánh giá, phân tích thực trạng, từ đó đề xuất biện pháp trong thời gian tới.
Bài 2: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế  hộ kinh doanh ở Việt Nam

Bài 2: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế hộ kinh doanh ở Việt Nam

Đối chiếu với kinh nghiệm của thế giới có thể thấy, thời gian qua, ngành Thuế Việt Nam đã không ngừng nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tập trung xây dựng các ứng dụng công nghệ thông tin... nhằm tăng cường công tác quản lý thuế đối với hộ, cá nhân kinh doanh (H-CNKD). Mặc dù vậy, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế lĩnh vực này, đảm bảo đáp ứng các yêu cầu cải cách hệ thống thuế và theo đúng lộ trình chuyển đổi số nền kinh tế, cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện cả về thể chế và phương thức quản lý.
Thuế với biến đổi khí hậu: kinh nghiệm tại một số nước G7 và khuyến nghị cho Việt Nam

Thuế với biến đổi khí hậu: kinh nghiệm tại một số nước G7 và khuyến nghị cho Việt Nam

Biến đổi khí hậu (BĐKH) đã và đang ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển kinh tế, xã hội, môi trường của các quốc gia trên thế giới. Vì thế, trong những thập niên vừa qua, các nước, đặc biệt là nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7) đều rất coi trọng việc xây dựng và thực thi kế hoạch tài chính khí hậu thông qua các chính sách tài chính công (CSTCC) nhằm tận dụng những cơ hội có lợi và giảm thiểu rủi ro, từ đó phát huy nguồn lực của toàn xã hội trong thích ứng BĐKH.
Quản lý thuế hộ kinh doanh: kinh nghiệm quốc tế và một số giải pháp cho Việt Nam

Quản lý thuế hộ kinh doanh: kinh nghiệm quốc tế và một số giải pháp cho Việt Nam

Với khoảng 5,5 triệu hộ kinh doanh (HKD) đang hoạt động trong nền kinh tế, công tác quản lý thuế nhóm đối tượng này luôn chiếm nhiều thời gian, nguồn lực của cơ quan thuế, song kết quả thu được lại chưa tương xứng. Nhằm tìm ra “kế sách” để cải thiện tình hình, thời gian qua, ngành Thuế đã triển khai nhiều đề án nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế đối với HKD. Góp phần vào nỗ lực này, trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới và đánh giá thực tế áp dụng tại Việt Nam, chuyên đề “Quản lý thuế hộ kinh doanh: kinh nghiệm quốc tế và một số giải pháp cho Việt Nam” của Tạp chí Thuế sẽ gợi mở, đề xuất một số giải pháp với cơ quan quản lý.
Đề xuất 3 phương án xác định ngưỡng chịu thuế GTGT đối với hộ và cá nhân kinh doanh

Đề xuất 3 phương án xác định ngưỡng chịu thuế GTGT đối với hộ và cá nhân kinh doanh

Trong những ngày gần đây, trên các diễn đàn kinh tế, nhiều chuyên gia đề xuất nên điều chỉnh mức doanh thu chịu thuế GTGT mới đối với hộ và cá nhân kinh doanh là 200 triệu đồng (thay mức hiện hành 100 triệu đồng), một số chuyên gia khác thì kiến nghị áp mức doanh thu mới lên 300 triệu đồng/năm... Để có cơ sở khoa học và tính thuyết phục cho vấn đề này, nhóm chuyên gia Trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội đã tiến hành nghiên cứu và đề xuất 3 phương án xác định ngưỡng chịu thuế GTGT đối với hộ và cá nhân kinh doanh trong thời gian tới.
Bài 2: Thiết lập hành lang pháp lý về quản lý thuế thương mại điện tử, đảm bảo môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng

Bài 2: Thiết lập hành lang pháp lý về quản lý thuế thương mại điện tử, đảm bảo môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng

(TCT online) -Khi hoạt động thương mại điện tử (TMĐT) và kinh doanh dựa trên nền tảng số được xác định là xu hướng tất yếu của nền kinh tế số thì cần thiết phải xây dựng, thiết lập hành lang pháp lý đầy đủ cho lĩnh vực này, nhằm đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, minh bạch trên môi trường kinh doanh. Theo hướng này, nhiều quy định tại các điều, khoản của Luật Quản lý thuế đã được cập nhật để sửa đổi bổ sung cho phù hợp với thực tiễn công tác quản lý...
Chuyển giá quyền sở hữu trí tuệ: bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ vụ kiện của Apple

Chuyển giá quyền sở hữu trí tuệ: bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ vụ kiện của Apple

Ngày 10/9/2024, Tòa án Công lý châu Âu (“ECJ”) đã đưa ra phán quyết về một vụ án thuế lớn liên quan đến hoạt động chuyển giá của Apple. Theo đó, ECJ đã ra lệnh cho Ireland thu hồi gần 14 tỷ Euro tiền thuế từ Apple do nộp thiếu trước đây. Đây cũng là một trong những phán quyết lớn nhất từ trước đến nay liên quan đến hành vi chuyển giá. Bài viết này phân tích cơ cấu định giá chuyển nhượng do Apple thiết lập liên quan đến Ireland và những cơ sở mà ECJ đã quyết định Apple phải nộp bổ sung các khoản thuế, từ đó gợi ý bài học kinh nghiệm hoạch định và giám sát hoạt động chuyển giá ở Việt Nam.
Quản lý hóa đơn điện tử: cần đồng bộ nhiều giải pháp

Quản lý hóa đơn điện tử: cần đồng bộ nhiều giải pháp

Tóm tắt: Việc chuyển đổi từ hóa đơn giấy sang hóa đơn điện tử (HĐĐT) là nhu cầu tất yếu, khách quan trong cải cách lĩnh vực thuế, nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước, giúp cải thiện môi trường kinh doanh theo hướng công bằng, minh bạch, đồng thời thúc đẩy phát triển nền kinh tế số. Tuy nhiên, một số tổ chức, cá nhân đã lợi dụng kẽ hở của pháp luật để phát hành và sử dụng HĐĐT trái pháp luật hòng gian lận thuế, chiếm đoạt NSNN. Để ngăn chặn tình trạng này, các giải pháp nâng cao hiệu quả phòng chống gian lận HĐĐT qua cơ chế quản lý rủi ro (QLRR) đã được đặt ra, tuy nhiên mức độ đến đâu thì vẫn cần phải bàn thảo thêm.
Đánh giá sự hài lòng của DN về chất lượng dịch vụ của cơ quan thuế: kết quả từ thực tiễn áp dụng tại Cục Thuế TP Hà Nội

Đánh giá sự hài lòng của DN về chất lượng dịch vụ của cơ quan thuế: kết quả từ thực tiễn áp dụng tại Cục Thuế TP Hà Nội

Nâng cao chất lượng dịch vụ thuế, hướng tới sự hài lòng của người nộp thuế (NNT) là một trong những nội dung quan trọng đang được ngành Thuế triển khai. Đây cũng là đề tài đã có nhiều nghiên cứu, song chưa có nghiên nào xuất phát từ quan điểm của DN theo các nội dung đưa ra của Tổng cục Thuế. Để nhận biết được ý kiến của DN đối với dịch vụ này, tác giả đã tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng về sự hài lòng của DN đối với chất lượng dịch vụ hỗ trợ thuế tại Cục Thuế TP Hà Nội, từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ hỗ trợ thuế cho DN trong thời gian tới.
Xem thêm
cty-tan-hiep-phat
peugeot-viet-nam
cty-tan-hiep-phat
peugeot-viet-nam
cty-lien-thai-binh-duong-ippg-1-thang-dien-dan-hq-dn-tu-12-9-2024-den-12-10-2024-kt-300x250

Tin mới

Hải quan khu vực XI tích cực triển khai nhiệm vụ theo cơ cấu tổ chức bộ máy mới

Hải quan khu vực XI tích cực triển khai nhiệm vụ theo cơ cấu tổ chức bộ máy mới

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) của doanh nghiệp (DN) và người khai hải quan, Chi cục Hải quan khu vực XI đang tích cực triển khai nhiệm vụ theo cơ cấu tổ chức bộ máy mới.
Sau sắp xếp, tinh gọn bộ máy, Chi cục Thuế khu vực XIV  vận hành ổn định

Sau sắp xếp, tinh gọn bộ máy, Chi cục Thuế khu vực XIV vận hành ổn định

Sau sắp xếp, tinh gọn bộ máy, Chi cục Thuế khu vực XIV đã đi vào hoạt động ổn định và hướng đến mục tiêu phục vụ người nộp thuế tốt hơn.
Manh mối lần ra "xưởng sản xuất ma túy" lớn nhất Việt Nam

Manh mối lần ra "xưởng sản xuất ma túy" lớn nhất Việt Nam

Tại nhà xưởng xuất ma túy ở TP Nha Trang (Khánh Hòa), lực lượng chức năng thu giữ tới 1,4 tấn ketamin với độ tinh khiết rất cao, gần 80 tấn hoá chất.
Thuế khu vực III triển khai quy trình quản lý thuế theo tổ chức bộ máy mới

Thuế khu vực III triển khai quy trình quản lý thuế theo tổ chức bộ máy mới

Chi cục Thuế khu vực III quyết tâm xây dựng nền hành chính thuế hiện đại, minh bạch, chuyên nghiệp, hoạt động hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả
Từ 1/6/2025: hóa đơn phải có mã định danh cá nhân của người mua

Từ 1/6/2025: hóa đơn phải có mã định danh cá nhân của người mua

Từ 1/6/2025, nội dung trên hóa đơn phải có thêm thông tin về mã định danh cá nhân của người mua hoặc mã số đơn vị có quan hệ với ngân sách.
(INFOGRAPHICS) Kết quả xuất nhập khẩu nổi bật trong 2 tháng đầu năm 2025

(INFOGRAPHICS) Kết quả xuất nhập khẩu nổi bật trong 2 tháng đầu năm 2025

Hết tháng 2/2025 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 127,07 tỷ USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước.
(Infographics) Tổng thu từ xuất nhập khẩu các tỉnh, thành vùng Tây Nguyên

(Infographics) Tổng thu từ xuất nhập khẩu các tỉnh, thành vùng Tây Nguyên

Số thu NSNN từ hoạt động XNK các tỉnh vùng Tây Nguyên 11 tháng đầu năm 2024 đạt 896,84 tỷ đồng, đạt 106,14% dự toán, chiếm 0,23% số thu toàn Ngành.
(INFOGRAPHICS) Kim ngạch hơn 67 tỷ USD, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam

(INFOGRAPHICS) Kim ngạch hơn 67 tỷ USD, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam

Hàn Quốc hiện là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam.
(INFOGRAPHICS): Tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp tham gia chương trình tự nguyện tuân thủ

(INFOGRAPHICS): Tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp tham gia chương trình tự nguyện tuân thủ

Tổng cục Hải quan ban hành Quyết định số 2790/QĐ-TCHQ về việc ban hành Chương trình khuyến khích doanh nghiệp tự nguyện tuân thủ pháp luật hải quan.
(INFOGRAPHICS) Tổng thu từ XNK các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ

(INFOGRAPHICS) Tổng thu từ XNK các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ

11 tháng đầu năm, số thu NSNN từ hoạt động XNK các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ đạt 54.898,78 tỷ đồng, bằng 122,31% dự toán, chiếm 14,27% số thu toàn Ngành.
Phiên bản di động