Áp dụng IFRS ở các DN Việt Nam: một số đề xuất để đạt mục tiêu
Những vấn đề đặt ra khi áp dụng IFRS vào DN
IFRS là bộ chuẩn mực kế toán được thiết kế và phát triển bởi một tổ chức độc lập, phi lợi nhuận gọi là Hội đồng Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB). Mục tiêu của IFRS là cung cấp một khuôn khổ quốc tế về cách lập và trình bày báo cáo tài chính cho các công ty đại chúng. IFRS tập trung vào các hướng dẫn, diễn giải chung nhất về cách lập báo cáo tài chính hơn là thiết lập các quy tắc lập báo cáo ngành cụ thể. IFRS cũng cung cấp cho các nhà đầu tư và các kiểm toán viên bức tranh toàn cảnh, rõ ràng về tài chính. Thông qua áp dụng IFRS, nền kinh tế Việt Nam nói chung và DN Việt Nam nói riêng sẽ được hưởng lợi từ hội nhập kinh tế, như được tiếp cận nguồn vốn, duy trì năng lực cạnh tranh và phát triển một cách bền vững, phát triển đội ngũ nhân sự kiểm toán. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy, việc áp dụng IFRS tại Việt Nam vẫn còn một số vấn đề bất cập.
Một là, việc chuyển đổi từ Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) sang IFRS có ảnh hưởng tới mọi mặt hoạt động của DN. Tại Việt Nam hiện nay, báo cáo tài chính của các DN đang được áp dụng theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) được Bộ Tài chính ban hành thành 5 đợt từ năm 2001 đến năm 2005 với 26 chuẩn mực. Trong khi đó, IFRS bao gồm hơn 40 chuẩn mực, bao gồm cả một số chuẩn mực mới được ban hành và áp dụng trong một vài năm gần đây, như IFRS 9-Công cụ tài chính, IFRS 15-Doanh thu từ các hợp đồng khách hàng, IFRS 16-Thuê tài sản. Do vậy, đang có một sự khác biệt rất lớn giữa VAS và IFRS.
Theo một số khảo sát về việc chuyển đổi sang IFRS ở nhiều quốc gia trên thế giới, nhiều DN đã bị thất bại hoặc gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn chuyển đổi. Nguyên nhân là do lãnh đạo DN cho rằng, chuyển đổi sang IFRS chỉ là việc thay đổi chính sách kế toán và là trách nhiệm của bộ phận kế toán (Daske, H. et al, 2008; Li, S., 2010). Nhưng trên thực tế, IFRS cần rất nhiều sự thay đổi của DN và đòi hỏi phải có sự hiểu biết và hợp tác của nhiều bộ phận khác nhau trong DN. Hơn nữa, sau khi xác định được những khác biệt trọng yếu giữa VAS và IFRS, DN sẽ phải đánh giá ảnh hưởng của những khác biệt này đến quy trình kinh doanh để có thể đề ra những yêu cầu cụ thể cho các phòng, ban liên quan.
Hai là, thách thức về nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực ở đây không chỉ giới hạn ở đội ngũ các nhân viên kế toán của các DN là đối tượng áp dụng IFRS, mà bao gồm cả lãnh đạo của các công ty này, vì họ là người chịu trách nhiệm phê duyệt báo cáo tài chính.
Các DN áp dụng IFRS sẽ phải thành lập một nhóm dự án triển khai IFRS riêng biệt, bao gồm những nhân viên được đào tạo chuyên sâu về IFRS vì sẽ rất khó khăn cho đội ngũ kế toán hiện thời của các DN áp dụng IFRS khi vừa phải thực hiện công tác kế toán theo VAS (trong giai đoạn chuyển đổi) vừa phải đi đào tạo về IFRS để có thể hạch toán kế toán và trình bày báo cáo theo IFRS. Ngoài ra, các nhân sự được giao triển khai IFRS cũng cần phải đạt được một trình độ tiếng Anh khá cao để có thể tự nghiên cứu các quy định và diễn giải của IFRS trong trường hợp các hướng dẫn IFRS bằng tiếng Việt chưa được ban hành một cách đầy đủ.
Ngoài ra, theo Quyết định số 345/QĐ-BTC của Bộ Tài chính, các DN áp dụng IFRS sẽ thực hiện lập báo cáo tài chính hợp nhất theo IFRS, điều này có nghĩa là các công ty con, công ty liên kết của họ cũng sẽ phải lập các bộ báo cáo thông tin tài chính cho mục đích lập báo cáo tài chính hợp nhất của công ty mẹ theo IFRS. Do vậy, các công ty con, công ty liên kết này cũng cần phải tuyển dụng và đào tạo các cán bộ kế toán có khả năng lập các bộ thông tin tài chính cho mục đích hợp nhất theo IFRS.
Ba là, thách thức về hệ thống công nghệ thông tin. Để có thể lập báo cáo tài chính theo IFRS, tối thiểu ở cấp độ công ty mẹ, các DN áp dụng IFRS sẽ phải thiết lập và duy trì một hệ thống phần mềm và sổ sách kế toán theo IFRS. Khó khăn đối với Việt Nam là trong giai đoạn đầu, các DN sẽ tiếp tục lập báo cáo tài chính riêng theo VAS và chỉ thực hiện lập báo cáo tài chính hợp nhất theo IFRS, điều đó có nghĩa là các DN sẽ phải duy trì song song 2 hệ thống tài khoản kế toán, sổ sách kế toán riêng biệt theo VAS và IFRS.
Bốn là, ảnh hưởng tiêu cực đến báo cáo tài chính khi áp dụng IFRS lần đầu tiên. Theo tác giả, khi lập báo cáo tài chính năm đầu tiên theo IFRS, nhiều DN sẽ phải đối mặt với những ảnh hưởng tiêu cực đến báo cáo tài chính do có sự khác biệt lớn giữa VAS hiện tại và IFRS, như tổn thất tài sản, thuê tài sản... Ngoài ra, do các DN lập báo cáo tài chính riêng theo VAS, còn báo cáo tài chính hợp nhất theo IFRS sẽ có tình huống xảy ra là báo cáo riêng theo VAS thì DN có lãi, còn báo cáo hợp nhất theo IFRS sẽ bị lỗ và DN sẽ không thể phân chia lợi nhuận cho các cổ đông, bởi vì theo quy định của Việt Nam, phần lợi nhuận sau thuế dùng để chia cổ tức sẽ được tính trên số nhỏ hơn giữa báo cáo tài chính riêng và báo cáo tài chính hợp nhất.
Năm là, cần thời gian dài để chuẩn bị cho việc áp dụng IFRS lần đầu tiên. Theo Quyết định số 345/QĐ-BTC thì giai đoạn chuẩn bị sẽ diễn ra từ năm 2020 đến hết năm 2021, sau đó giai đoạn áp dụng tự nguyện từ năm 2022 đến hết năm 2025. Có thể hiểu là, giai đoạn chuẩn bị là thời gian để Bộ Tài chính tiến hành biên soạn và đưa ra hướng dẫn về IFRS bằng tiếng Việt và chưa bao gồm thời gian để cho các DN tìm hiểu về IFRS, tuyển dụng và đào tạo nhân sự về IFRS. Theo tác giả, các DN triển khai áp dụng IFRS lần đầu tiên sẽ phải mất ít nhất 2-3 năm cho công tác đào tạo và chuẩn bị số liệu cho báo cáo tài chính lập theo IFRS lần đầu tiên.
Một số đề xuất và giải pháp
Để áp dụng thành công và hiệu quả IFRS ở các DN Việt Nam hiện nay, theo tác giả, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Về phía các cơ quan quản lý nhà nước, cần sớm ban hành hệ thống chính sách hướng dẫn công tác lập báo cáo tài chính theo IFRS; sớm đánh giá, sửa đổi, bổ sung cập nhật 26 chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) đã ban hành cho phù hợp với những thay đổi của IAS/IFRS và thực tiễn hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Đồng thời, từng bước tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh tế và luật pháp phù hợp với yêu cầu của IAS/IFRS.
Bên cạnh đó, để đáp ứng kịp thời sự đổi mới và phát triển của nền kinh tế, cần sớm ban hành 5 chuẩn mực kế toán liên quan đến các đối tượng và giao dịch đã phát sinh trong đời sống kinh tế, bao gồm: Thanh toán bằng cổ phiếu (IFRS 02); Tìm kiếm, thăm dò và xác định giá trị các nguồn tài nguyên khoáng sản (IFRS 06); Công cụ tài chính (IFRS 7; IFRS 9); Các khoản tài trợ của Chính phủ (IAS 20): Tổn thất tài sản (IAS 36). Một số chuẩn mực cũng cần có bước chuẩn bị để ban hành trong thời gian tiếp theo, như: Tài sản nắm giữ để bán và hoạt động kinh doanh không liên tục; Phúc lợi của nhân viên; Nông nghiệp…
Để tăng cường áp dụng IFRS ở Việt Nam, các cơ quan quản lý nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các DN, tổ chức nghiên cứu và áp dụng IFRS. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cần phối kết hợp tổ chức nhiều chương trình tập huấn, hướng dẫn các DN và tiến hành áp dụng IFRS vào quá trình lập báo cáo tài chính; tăng cường đối thoại với các DN để khuyến khích chuyển sang áp dụng IFRS. Bộ Tài chính cũng cần làm tốt công tác phối hợp với các bộ, ngành liên quan rà soát, ban hành lại, hoặc trình cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực tài chính theo hướng giảm thiểu sự khác biệt giữa các văn bản; xác định và phân biệt rõ phạm vi áp dụng chuẩn mực kế toán, chính sách thuế và cơ chế tài chính, tạo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật của DN.
Về phía các cơ sở đào tạo, sớm đưa IFRS vào chương trình giảng dạy tại hệ thống các cơ sở đào tạo nghề nghiệp, ít nhất là trong các trường đào tạo chuyên ngành kế toán, kiểm toán khối đại học. Công tác này cần được chuẩn bị bài bản từ các khâu viết giáo trình, tài liệu học tập, tài liệu tham khảo, môn học giảng dạy trong chương trình đào tạo chuyên ngành.
Về phía các hiệp hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, cần nâng cao vai trò trong việc đào tạo, giảng dạy, tập huấn, phổ biến kiến thức của IFRS cho đội ngũ nhân lực trong ngành, hỗ trợ kỹ thuật cho các DN áp dụng. Các cơ quan ban ngành như Bộ Tài chính, các hiệp hội nghề nghiệp kế toán-kiểm toán, các tổ chức quốc tế cần tích cực hỗ trợ tư vấn cho các DN trong quá trình áp dụng IFRS.
Về phía các DN, cần nhận thức đúng đắn về lợi ích dài hạn của việc áp dụng IFRS; xác định mục tiêu, nhu cầu và kế hoạch áp dụng. Cụ thể là căn cứ vào nội dung, đối tượng của Đề án áp dụng IFRS tại Việt Nam để chủ động xây dựng kế hoạch chi tiết và tổ chức thực hiện phù hợp với lộ trình áp dụng IFRS. Cùng lúc, xây dựng kế hoạch tổng thể và triển khai đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu và lộ trình áp dụng IFRS.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Tài chính (2020). Quyết định số 345/QĐ-BTC, ngày 16/3/2020 phê duyệt Đề án áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế tại Việt Nam.
2. Daske, H., Hail, L., Leuz, C., Verdi, S. (2008). Mandatory IFRS Reporting Around the World: Early Evidence on the Economic Consequences, Journal of Accounting Research, 46(5).
3. Li, S. (2010). Does Mandatory Adoption of International Financial Reporting Standards in the European Union Reduce the Cost of Equity Capital, The Accounting Review, 85(2).
Ths Hàn Thị Lan Thư - Viện Kế toán-Kiểm toán, ĐH Kinh tế quốc dân
Tin liên quan

Mở rộng đối tượng được giảm thuế giúp nền kinh tế sớm phục hồi, tăng trưởng
14:22 | 28/03/2025 Diễn đàn

Hiệu quả triển khai các ứng dụng quản lý hóa đơn điện tử
15:26 | 19/12/2024 Diễn đàn

Quản lý thuế thương mại điện tử tại Việt Nam: đánh giá chính sách và kiến nghị
11:06 | 02/12/2024 Diễn đàn

Quản lý thuế hoạt động thương mại điện tử: hạn chế pháp lý và đề xuất hoàn thiện
09:57 | 25/11/2024 Diễn đàn

Giải pháp nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế
09:09 | 18/11/2024 Diễn đàn

Bài 2: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế hộ kinh doanh ở Việt Nam
09:07 | 18/11/2024 Diễn đàn

Thuế với biến đổi khí hậu: kinh nghiệm tại một số nước G7 và khuyến nghị cho Việt Nam
09:01 | 11/11/2024 Diễn đàn

Quản lý thuế hộ kinh doanh: kinh nghiệm quốc tế và một số giải pháp cho Việt Nam
08:57 | 11/11/2024 Diễn đàn

Bài 3: Sửa đổi quy định về biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thu kịp thời tiền nợ thuế vào NSNN
08:49 | 04/11/2024 Diễn đàn

Đề xuất 3 phương án xác định ngưỡng chịu thuế GTGT đối với hộ và cá nhân kinh doanh
08:48 | 04/11/2024 Diễn đàn

Bài 2: Thiết lập hành lang pháp lý về quản lý thuế thương mại điện tử, đảm bảo môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng
11:25 | 28/10/2024 Diễn đàn

Chuyển giá quyền sở hữu trí tuệ: bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ vụ kiện của Apple
08:51 | 28/10/2024 Diễn đàn

Quản lý hóa đơn điện tử: cần đồng bộ nhiều giải pháp
08:48 | 28/10/2024 Diễn đàn
Tin mới

Giá vàng trong nước và thế giới đồng loạt tăng mạnh trong ngày đầu tháng 4/2025

Từ vụ Kẹo rau củ Kera: Cẩn trọng trước những thông tin quảng cáo trên mạng xã hội

Máy đào bitcoin không thuộc danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu

Các công ty xây dựng uy tín vươn mình khi thị trường được “tái sinh”

Mỗi năm cần hoàn thành 150.000 căn nhà ở xã hội mới đạt mục tiêu đề ra

(INFOGRAPHICS) Kết quả xuất nhập khẩu nổi bật trong 2 tháng đầu năm 2025
12:51 | 27/03/2025 Infographics

(Infographics) Tổng thu từ xuất nhập khẩu các tỉnh, thành vùng Tây Nguyên

(INFOGRAPHICS) Kim ngạch hơn 67 tỷ USD, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam
11:29 | 04/12/2024 Infographics

(INFOGRAPHICS): Tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp tham gia chương trình tự nguyện tuân thủ
16:30 | 06/12/2024 Infographics

(INFOGRAPHICS) Tổng thu từ XNK các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ
16:33 | 06/12/2024 Multimedia