Quản lý thuế thương mại điện tử tại Việt Nam: đánh giá chính sách và kiến nghị

Điều đáng nói là trong khi một số quốc gia đã ban hành luật TMĐT toàn diện thì những quốc gia khác lại dựa vào các nguyên tắc pháp lý hiện có (như hợp đồng, chữ ký điện tử, bảo vệ người tiêu dùng, quyền riêng tư dữ liệu và quyền sở hữu trí tuệ) để điều chỉnh cho phù hợp với lĩnh vực kỹ thuật số. Do đó, khung pháp lý về TMĐT vẫn đang trong quá trình hoàn thiện và đưa vào thực tiễn, còn nhiều khoảng trống cho các nhà làm luật có thể xây dựng luật bổ sung về vấn đề này, mà Việt Nam không phải là ngoại lệ.
Khuôn khổ chính sách và pháp lý đối với TMĐT tại các nước
Tốc độ phát triển nhanh đến mức chóng mặt của TMĐT trên toàn thế giới đã khiến cơ chế chính sách ở nhiều nước chưa hoàn thiện kịp thời, dẫn đến nhiều hàng hóa, dịch vụ bị thiệt hại; trong khi nghĩa vụ thuế trong lĩnh vực này chưa được thực hiện đầy đủ, tạo ra sự bất bình đẳng trong hệ thống thuế của các nước.
Tại châu Âu, cơ quan thuế đang đối mặt với nguy cơ chuyển lợi nhuận của DN TMĐT sang các quốc gia có thuế suất thấp hơn, còn gọi là thiên đường thuế, đặc biệt đối với hàng hóa vô hình hoặc hàng hóa, dịch vụ kỹ thuật số. Ngoài ra, mã hóa đầu cuối trong giao dịch điện tử và cho phép thanh toán bằng tiền điện tử cũng gây khó khăn cho việc quản lý TMĐT. Do đó, châu Âu yêu cầu các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ TMĐT ngoài EU phải đăng ký thuế khi bán hàng vào EU và thu thuế GTGT từ người tiêu dùng hàng hóa tại EU. Mặt khác, việc thu thuế đối với hàng hóa, dịch vụ qua TMĐT, đặc biệt là hàng hóa, dịch vụ vô hình ở Mỹ và Canada chủ yếu thông qua việc kê khai tự nguyện của người mua hoặc người bán. Cụ thể, chỉ các DN cung cấp hàng hóa, dịch vụ mới khai thuế trong TMĐT vì thuế đầu vào của hàng nhập khẩu sẽ được khấu trừ vào thuế đầu ra khi bán hàng hóa, dịch vụ và DN sẽ có bộ phận ấn định và nộp thuế tiêu thụ trên lãnh thổ. Tuy nhiên, do người tiêu dùng cá nhân thường không chấp hành yêu cầu kê khai, nộp thuế tự nguyện khi mua hàng hóa, dịch vụ qua TMĐT, nên Chính phủ Canada yêu cầu các nhà cung cấp nước ngoài bán hàng qua TMĐT tại Canada phải đăng ký thuế nếu giá trị giao dịch hàng hóa vượt quá một ngưỡng nhất định. Tương tự, cơ quan thuế Mỹ cũng yêu cầu DN, cá nhân phải ký cam kết khai thuế trung thực trước khi đăng ký kinh doanh TMĐT như một biện pháp phòng ngừa thất thu thuế.
Cũng liên quan đến quản lý thuế TMĐT, trong khi một số quốc gia châu Á-Thái Bình Dương, như Singapore và Úc, đã triển khai các nguyên tắc đánh thuế dựa trên điểm đến đối với các dịch vụ kỹ thuật số, phù hợp với dự án BEPS của OECD, thì ở nhiều nước châu Á, các cơ quan quản lý nhà nước về công nghiệp và thương mại đã ban hành yêu cầu tất cả các nhà bán lẻ trực tuyến phải cung cấp tên thật và số chứng minh nhân dân, căn cước… trên các nền tảng mua sắm trực tuyến để họ có thể dễ dàng theo dõi và quản lý. Đặc biệt, Trung Quốc đã bắt đầu áp dụng hóa đơn điện tử trong quản lý TMĐT nhằm theo dõi việc thu, nộp thuế.
Quản lý thuế TMĐT ở Việt Nam
Bất chấp những tác động của đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn nổi lên là một trong những thị trường TMĐT tăng trưởng nhanh nhất Đông Nam Á. Theo Sách trắng TMĐT Việt Nam năm 2023, tốc độ tăng trưởng của TMĐT đạt 25% với quy mô ước đạt 20,5 tỷ USD. Hơn nữa, số lượng người tiêu dùng Việt Nam tham gia TMĐT tăng đều qua các năm. Kết quả điều tra, khảo sát của Bộ Công thương cho thấy đến năm 2023, Việt Nam có 61 triệu người tham gia mua sắm trực tuyến, chiếm 78,6% số người sử dụng Internet. Thị trường TMĐT tại Việt Nam cũng còn rất nhiều tiềm năng để phát triển hơn nữa trong tương lai (Bộ Công thương, 2023).
Đối với TMĐT xuyên biên giới, nếu như trước đây DN Việt Nam chỉ tham gia thương mại xuyên biên giới bằng phương thức truyền thống thì nay đã bắt đầu tham gia thông qua TMĐT xuyên biên giới. Thống kê từ Amazon cho thấy, số DN Việt đạt doanh thu 1 triệu USD/năm trên nền tảng TMĐT quốc tế đã tăng vọt gấp 10 lần trong 5 năm qua. Sự tiến triển tích cực này đã thúc đẩy nhiều DN Việt Nam mở rộng quy mô hiện diện thương hiệu của họ trên toàn cầu và nâng cao khả năng cạnh tranh trên toàn thế giới.
Trước đây, giống như loại hình kinh doanh truyền thống, Việt Nam chủ yếu đánh thuế GTGT đối với các giao dịch TMĐT. Hoạt động TMĐT trong nước phải chịu thuế GTGT với mức thuế suất thông thường là 10%. Đối với TMĐT xuyên biên giới, Việt Nam đã thực hiện đơn giản hóa chế độ đăng ký và tuân thủ thuế đối với các DN TMĐT nước ngoài có doanh thu hàng năm vượt ngưỡng nhất định. Các DN này phải đăng ký thuế GTGT, thu và nộp thuế GTGT đối với vật tư chịu thuế cho người tiêu dùng Việt Nam. Tuy nhiên, Thanh Hoa (2024) cho rằng, với ngưỡng đăng ký GTGT tương đối cao, chính sách có thể loại các DN TMĐT nhỏ hơn ra khỏi mạng lưới thuế, gây thất thu NSNN. Nhằm tối đa hóa nguồn thu từ thuế và tạo môi trường kinh doanh công bằng và cạnh tranh cho cả các DN TMĐT trong và ngoài nước, trên cơ sở nghiên cứu thông lệ quốc tế, Việt Nam đã xây dựng Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14. Trong đó, đã bổ sung nghĩa vụ đăng ký, kê khai, nộp thuế đối với các nhà cung cấp trong và ngoài nước kinh doanh TMĐT, kinh doanh trên nền tảng số nhưng không có cơ sở thường trú tại Việt Nam; bổ sung quy định về quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quản lý thuế đối với TMĐT.
Để cụ thể hóa trong công tác quản lý thuế, Bộ Tài chính Việt Nam đã ban hành thêm các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Quản lý thuế, trong đó các nội dung về quản lý thuế đối với TMĐT đã được hướng dẫn rõ ràng tại Nghị định số 126/2020/NĐ-CP, Thông tư số 105/2020/TT-BTC, Thông tư số 40/2021/TT-BTC, Thông tư số 80/2021/TT-BTC và Thông tư số 100/2021/TT-BTC (Bộ Tài chính, 2020; 2021). Các văn bản này đã góp phần thắt chặt khuôn khổ pháp lý về quản lý hoạt động TMĐT và giúp quá trình quản lý thuế đối với loại hình kinh doanh này hiệu quả hơn. Với nhiều nỗ lực, Việt Nam là một trong số ít quốc gia ở châu Á xây dựng luật cụ thể và các văn bản hướng dẫn chi tiết về thuế đối với hoạt động kinh doanh TMĐT. Thậm chí khi so sánh với các nước ở Đông Nam Á và châu Phi, chính sách thuế TMĐT của Việt Nam được đánh giá là tiến bộ hơn và ngang bằng với khuôn khổ quốc tế.
Kiến nghị hoàn thiện thể chế chính sách với TMĐT
Mặc dù thể chế quản lý thuế TMĐT của Việt Nam đã được ghi nhận với nhiều điểm tích cực nhưng vẫn còn nhiều vấn đề tồn đọng chưa được giải quyết, như chuẩn hóa quy trình khai thuế TMĐT và thu thuế đối với hoạt động TMĐT. Do đó, việc tiếp tục quan sát và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động TMĐT là rất cần thiết.
Hiện nay, cơ quan thuế Việt Nam đang quản lý hai nhóm chính tham gia hoạt động TMĐT là TMĐT trong nước liên quan đến mua bán hàng hóa, dịch vụ và TMĐT xuyên biên giới. Đối với TMĐT trong nước, do có quá nhiều DN TMĐT mới nổi với giao dịch rất nhiều và thường ở quy mô nhỏ nên với những trường hợp người nộp thuế không đăng ký kinh doanh hoặc không nộp thuế, cơ quan thuế không thể xác định được địa điểm kinh doanh hay giờ hoạt động vì hoạt động mua bán diễn ra 24/7 và mọi ngày trong tuần. Đối với TMĐT xuyên biên giới cũng khó xác định nguồn thu nhập và đối tượng nộp thuế khi các chủ thể không đăng ký kinh doanh và không có cơ sở kinh doanh cố định. Trong môi trường kỹ thuật số, các hoạt động kinh doanh có thể được thực hiện thông qua các trang web có mặt tại một thị trường cụ thể mà không cần sự hiện diện thực tế của người nộp thuế ở đó. Vì vậy, khó khăn lớn nhất là việc quản lý nguồn thu và xác định căn cứ tính thuế khi người nộp thuế, tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động kinh doanh xuyên biên giới.
Việc kiểm soát các giao dịch kinh doanh để quản lý đối tượng chịu thuế đối với hoạt động TMĐT cũng không hề đơn giản. Bởi, các DN TMĐT không cần có cửa hàng truyền thống, các giao dịch hoàn toàn được thực hiện trên môi trường điện tử, máy chủ có thể được đặt ở nước ngoài và một thực thể có thể có nhiều quầy hàng trên một nền hoặc nhiều nền tảng TMĐT cũng như trên nhiều trang truyền thông xã hội. Về đăng ký kinh doanh thì tùy theo quy mô và tính chất giao dịch, DN có thể sử dụng văn bản điện tử hoặc đơn giản là đồng ý qua tin nhắn điện tử. Đặc điểm này cũng là thách thức đối với công tác quản lý thuế vì để thu thuế cần xác định rõ danh tính người nộp thuế. Nếu DN cố tình xóa lịch sử giao dịch thì hiện chưa có giải pháp công nghệ nào để khôi phục dữ liệu giao dịch đã xóa và điều này còn liên quan đến quyền riêng tư cá nhân. Với hàng trăm triệu tin nhắn điện tử được gửi đi và hàng nghìn loại thông tin được truyền đi trong thời gian ngắn, những lý do nêu trên khiến việc xác định thông tin liên quan đến giao dịch TMĐT trở nên rất khó khăn. Thậm chí, với các hình thức thanh toán cũng vô cùng đa dạng, kể cả khi xác định có dòng tiền từ đơn vị này sang đơn vị khác cũng không thể khẳng định đó là khoản thanh toán cho một giao dịch TMĐT. Chưa kể, nếu DN TMĐT có thể sử dụng phương thức thanh toán thu tiền khi giao hàng (COD) thì càng khó kiểm soát dòng tiền để xác định giao dịch TMĐT.
Từ những phân tích và đánh giá thực tế, nhằm cải thiện công tác quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh TMĐT, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị như sau.
Thứ nhất, hoàn thiện và lấp đầy khuôn khổ pháp luật về chính sách thuế, quản lý thuế một cách cụ thể và toàn diện đối với các mô hình kinh doanh TMĐT. Hiện nay theo Luật Quản lý thuế 2019, thì nguyên tắc khai thuế, tính thuế và xác định đối tượng phải nộp thuế vẫn còn nhiều lỗ hổng. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu minh bạch trong kê khai và nộp thuế, tạo cơ hội cho nhiều DN và cá nhân kinh doanh TMĐT trốn tránh nghĩa vụ thuế. Không ít cá nhân kinh doanh TMĐT đạt doanh thu hàng tỷ đồng mỗi tháng nhưng lại không thực hiện nghĩa vụ kê khai và nộp thuế. Nguyên nhân chính là do cơ quan thuế gặp nhiều khó khăn trong việc xác định đối tượng nộp thuế, theo dõi giao dịch và truy thu thuế đối với các hoạt động kinh doanh diễn ra trên không gian mạng. Mặc dù một số DN TMĐT lớn đã tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế, tuy nhiên, phần lớn các tổ chức, cá nhân kinh doanh nhỏ lẻ lại chưa có ý thức đầy đủ về nghĩa vụ này. Điều này dẫn đến tình trạng thất thu NSNN đáng kể, ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn thu và khả năng đầu tư phát triển của quốc gia. Do đó, cơ quan chức năng cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống chính sách, nhất là các quy định về cách tính thuế kinh doanh TMĐT đối với các nhóm đối tượng cụ thể gồm DN, cá nhân và hộ gia đình để đảm bảo công bằng, minh bạch. Theo hướng này, quy định các sàn TMĐT có trách nhiệm kê khai, nộp thuế thay các cá nhân kinh doanh trên sàn là một hướng tiếp cận khả thi và hiệu quả.
Thứ hai, tiếp tục cải cách hành chính theo đơn giản hóa và hiện đại hoá công tác quản lý. Từ những quan sát thực tiễn hiện nay, nhờ chương trình Chính phủ điện tử mà cơ sở dữ liệu quốc gia về Tài chính đã cơ bản được hoàn thiện. Bên cạnh đó, với nhiều ứng dụng quản lý thuế, kê khai, nộp thuế trực tuyến, cổng thông tin trực tuyến được xây dựng và áp dụng, ngành Thuế đã tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân thuận tiện trong việc tuân thủ pháp luật thuế. Trong thời gian tới, việc chuyển đổi số công tác quản lý thuế cần được trở thành quy định chung và bắt buộc, thay vì là phương án khuyến khích như hiện tại. Như vậy, cơ quan quản lý có thể dễ dàng cập nhật kịp thời và theo dõi hoạt động thực hiện nghĩa vụ thuế của DN thay vì phải vất vả trong việc tìm kiếm dữ liệu trên giấy tờ.
Thứ ba, đẩy mạnh công tác phối hợp với các quốc gia trong khu vực và quốc tế nhằm đề ra các quy tắc chung về quản lý thuế, xác định quyền đánh thuế đối với các giao dịch, thu nhập phát sinh từ các mô hình kinh doanh kỹ thuật số. Về cơ bản, đa phần các quốc gia trên thế giới đều đã tự xây dựng được pháp luật liên quan tới TMĐT. Do đó, cần xây dựng được một bản công ước để làm căn cứ cụ thể cho hoạt động quản lý thuế suất với hoạt động TMĐT. Đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, khi hoạt động TMĐT ngày càng mở rộng xuyên biên giới thì nếu không có hành lang chung thì rất khó để kiểm soát được hoạt động kinh doanh này, đồng thời còn gây trở ngại cho cơ quan quản lý khi phải thực hiện truy thu thuế.
Tài liệu tham khảo
- Bộ Công thương. Sách trắng thương mại điện tử Việt Nam năm 2023. Hà Nội.
- Bộ Tài chính. Thông tư số 105/2020/TT-BTC; Thông tư số 40/2021/TT-BTC; Thông tư số 80/2021/TT-BTC; Thông tư số 100/2021/TT-BTC sửa đổi Thông tư số 40/2021/TT-BTC.
- Chính phủ. Nghị định số 52/2013/NĐ-CP; Nghị định số 126/2020/NĐ-CP.
- Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Decision on South Dakota v. Wayfair, Inc. 586 U.S..Supreme Court.
- Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
National Conference of State Legislatures. Louisville. Ky.
- Laudon, K. C., & Laudon, J. P. Management Information Systems: Managing the Digital Firm 15th Edition. Pearson Education.
- Liên minh Châu Âu. Directive 2000/31/EC of the European Parliament and of the Council of 8 June 2000 on electronic commerce. European Union.
- Liên minh Châu Âu. Council Directive (EU) 2021/514 of 22 March 2021 amending Directive 2006/112/EC on the common system of value added tax in relation to certain obligations for Union supplies of goods and services and repealing Directive 2008/8/EC.
- OECD. Pillar One - Amount B: Inclusive Framework on BEPS. OECD/G20 Base Erosion and Profit Shifting Project. OECD Publishing.
- Quốc hội (2019). Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14
- Smith (2009). Worldwide Growth of E-Commerce. E-Business (March), 29-34. DOI: 10.1201/9781439809426-c4.
- Statista (2024). eCommerce - Worldwide | Statista Market Forecast.
Thanh Hoa. Đề xuất thu thuế VAT với các đơn hàng giá trị nhỏ chuyển qua Shopee, Lazada, TikTok. Tạp chí điện tử Kinh Doanh. https://vnbusiness.vn/thue-ngan-sach/de-xuat-thu-thue-vat-voi-cac-don-hang-gia-tri-nho.html.
...
Phạm Hà Anh - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tin liên quan

Mở rộng đối tượng được giảm thuế giúp nền kinh tế sớm phục hồi, tăng trưởng
14:22 | 28/03/2025 Diễn đàn

Hiệu quả triển khai các ứng dụng quản lý hóa đơn điện tử
15:26 | 19/12/2024 Diễn đàn

Quản lý thuế hoạt động thương mại điện tử: hạn chế pháp lý và đề xuất hoàn thiện
09:57 | 25/11/2024 Diễn đàn

Giải pháp nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế
09:09 | 18/11/2024 Diễn đàn

Bài 2: Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế hộ kinh doanh ở Việt Nam
09:07 | 18/11/2024 Diễn đàn

Thuế với biến đổi khí hậu: kinh nghiệm tại một số nước G7 và khuyến nghị cho Việt Nam
09:01 | 11/11/2024 Diễn đàn

Quản lý thuế hộ kinh doanh: kinh nghiệm quốc tế và một số giải pháp cho Việt Nam
08:57 | 11/11/2024 Diễn đàn

Bài 3: Sửa đổi quy định về biện pháp cưỡng chế để đảm bảo thu kịp thời tiền nợ thuế vào NSNN
08:49 | 04/11/2024 Diễn đàn

Đề xuất 3 phương án xác định ngưỡng chịu thuế GTGT đối với hộ và cá nhân kinh doanh
08:48 | 04/11/2024 Diễn đàn

Bài 2: Thiết lập hành lang pháp lý về quản lý thuế thương mại điện tử, đảm bảo môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng
11:25 | 28/10/2024 Diễn đàn

Chuyển giá quyền sở hữu trí tuệ: bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ vụ kiện của Apple
08:51 | 28/10/2024 Diễn đàn

Quản lý hóa đơn điện tử: cần đồng bộ nhiều giải pháp
08:48 | 28/10/2024 Diễn đàn
Tin mới

Hải quan khu vực XI tích cực triển khai nhiệm vụ theo cơ cấu tổ chức bộ máy mới

Sau sắp xếp, tinh gọn bộ máy, Chi cục Thuế khu vực XIV vận hành ổn định

Manh mối lần ra "xưởng sản xuất ma túy" lớn nhất Việt Nam

Thuế khu vực III triển khai quy trình quản lý thuế theo tổ chức bộ máy mới

Từ 1/6/2025: hóa đơn phải có mã định danh cá nhân của người mua

(INFOGRAPHICS) Kết quả xuất nhập khẩu nổi bật trong 2 tháng đầu năm 2025
12:51 | 27/03/2025 Infographics

(Infographics) Tổng thu từ xuất nhập khẩu các tỉnh, thành vùng Tây Nguyên

(INFOGRAPHICS) Kim ngạch hơn 67 tỷ USD, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam
11:29 | 04/12/2024 Infographics

(INFOGRAPHICS): Tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp tham gia chương trình tự nguyện tuân thủ
16:30 | 06/12/2024 Infographics
