Bước tiến mới trong quản lý xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
Ứng dụng công nghệ hiện đại trong quản lý hàng gia công, sản xuất xuất khẩu | |
Sẽ thống nhất thực hiện Danh mục hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam |
Công chức Hải quan cửa khẩu cảng Hải Phòng KV 3 kiểm tra hàng hóa XNK. Ảnh: N.Linh |
Kế thừa quy định đã thực hiện hiệu quả
Dự thảo Thông tư quy định về xác định xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu là văn bản pháp luật được Tổng cục Hải quan dày công nghiên cứu, soạn thảo và lấy ý kiến các chuyên gia, doanh nghiệp và đơn vị có liên quan. Theo Cục Giám sát quản lý về hải quan, dự thảo Thông tư này sẽ thay thế các Thông tư: số 38/2018/TT-BTC; số 62/2019/TT-BTC; số 47/2020/TT-BT, số 07/2021/TT-BTC và bổ sung hướng dẫn về kiểm tra xuất xứ hàng hóa của Hiệp định RCEP. Trong đó rất nhiều quy định mới tạo thuận lợi cho hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, phù hợp với thực tiễn và khắc phục được vướng mắc hiện tại.
Chẳng hạn quy định về hình thức nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa, dự thảo Thông tư tiếp tục kế thừa các quy định đã thực hiện hiệu quả thời điểm dịch Covid-19 diễn biến phức tạp tại Thông tư 47/2020/TT-BTC, và so với Thông tư 38/2018/TT-BTC, thủ tục hành chính đã giảm thiểu tối đa. Cụ thể dự thảo quy định: chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa được nộp cho cơ quan Hải quan dưới dạng dữ liệu điện tử hoặc bản scan từ bản gốc/bản chính thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan; trường hợp C/O được cấp trên Cổng thông tin một cửa quốc gia, một cửa ASEAN hoặc được cấp trên Trang thông tin điện tử theo thông báo của cơ quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu, người khai hải quan không phải nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ.
Về thời điểm nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ cho cơ quan Hải quan cũng là nội dung rất mới, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp theo hướng quy định kéo dài thời hạn được nộp bổ sung chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa.
Cụ thể, đối với hàng hóa áp dụng thuế ưu đãi đặc biệt, dự thảo Thông tư cho phép thời hạn nộp bổ sung chứng từ chứng nhận xuất xứ là 1 năm kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan. Đối với hàng hóa nhập khẩu có chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa áp dụng Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu, Việt Nam – Vương quốc Anh và Bắc Ai len, trường hợp chưa có chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa tại thời điểm làm thủ tục hải quan, người khai hải quan nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong thời hạn 2 năm kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan.
Ngoài ra, về chứng từ chứng nhận xuất xứ đối với hàng hóa thuộc diện Việt Nam thông báo đang ở trong thời điểm áp dụng thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, các biện pháp tự vệ, biện pháp hạn ngạch thuế quan, biện pháp hạn chế số lượng, dự thảo thông tư quy định: theo hướng người khai hải quan nộp bổ sung chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan để áp dụng thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ hoặc thuế suất ngoài hạn ngạch thuế quan theo các quyết định của Bộ Công Thương và được xử lý số tiền thuế nộp thừa trong trường hợp số tiền thuế đã nộp lớn hơn số tiền thuế phải nộp.
Áp dụng bảo lãnh thuế
Theo Cục Giám sát quản lý về hải quan, một nội dung rất mới được quy định tại dự thảo Thông tư này là áp dụng bảo lãnh thuế đối với các trường hợp chưa nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa tại thời điểm làm thủ tục hải quan hoặc trong trường hợp tiến hành xác minh với nước ngoài.
Cụ thể, tại dự thảo Thông tư quy định: đối với hàng hóa quy định tại điểm a khoản 1 Điều 11 (Người khai hải quan muốn được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi thuế quan trong quan hệ thương mại với Việt Nam và hàng hóa từ khu phi thuế quan nhập khẩu vào thị trường trong nước đáp ứng điều kiện xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi thuế quan trong quan hệ thương mại với Việt Nam), người khai hải quan nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa tại thời điểm làm thủ tục hải quan. Trường hợp chưa có chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa tại thời điểm làm thủ tục hải quan, hàng hóa nhập khẩu phải áp dụng thuế suất MFN hoặc thuế suất thông thường và được thông quan. Trường hợp được tổ chức tín dụng bảo lãnh số tiền thuế chênh lệch thì được áp dụng thuế suất ưu đãi đặc biệt và thông quan theo quy định.
Ngoài ra, đối với hàng hóa quy định tại điểm d khoản 1 Điều 11 (Hàng hóa thuộc Danh mục theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Công Thương thông báo đang ở thời điểm áp dụng thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, các biện pháp tự vệ, biện pháp hạn ngạch thuế quan, biện pháp hạn chế số lượng), dự thảo Thông tư quy định: người khai hải quan nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa tại thời điểm làm thủ tục hải quan. Trường hợp chưa có chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa tại thời điểm làm thủ tục hải quan thì hàng hóa nhập khẩu phải áp dụng thuế chống bán phá giá hoặc thuế chống trợ cấp hoặc thuế tự vệ hoặc thuế suất ngoài hạn ngạch thuế quan đối với toàn bộ lô hàng theo quy định của Bộ Công Thương. Trường hợp được tổ chức tín dụng, bảo lãnh số tiền thuế phải nộp thì chấp nhận mức thuế suất áp dụng theo khai báo của người khai hải quan và hàng hoá được thông quan theo quy định”.
Bên cạnh đó, tại dự thảo Thông tư cũng xử lý trường hợp có sự khác biệt về mã số HS trên tờ khai và trên chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa không ảnh hưởng đến tính hợp lệ của chứng từ chứng nhận xuất xứ. Chẳng hạn, trường hợp tiêu chí xuất xứ khai báo trên chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa là xuất xứ thuần túy (WO), sự khác biệt về mã số hàng hóa (HS) không ảnh hưởng đến tính hợp lệ của chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa.
Hay trường hợp tiêu chí xuất xứ khai báo trên chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa là hàng hóa được sản xuất toàn bộ từ nguyên vật liệu có xuất xứ (PE hoặc RVC100%), sự khác biệt về mã số HS không ảnh hưởng đến tính hợp lệ của chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa (trừ trường hợp tiêu chí xuất xứ áp dụng theo HS trên tờ khai hải quan phải đạt WO). Trường hợp hàng hóa theo mã số HS trên tờ khai hải quan có tiêu chí xuất xứ cùng tiêu chí xuất xứ khai trên chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa là giá trị hàm lượng khu vực (RVC) hoặc quy trình sản xuất đặc thù (SP), sự khác biệt về mã số HS không ảnh hưởng đến tính hợp lệ của chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa…
Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Mai Xuân Thành: Quản lý thực chất, gia tăng giá trị thương hiệu Việt Để xây dựng, hoàn thiện dự thảo Thông tư, Tổng cục Hải quan đã có nhiều đợt hội thảo lấy ý kiến cộng đồng doanh nghiệp, chuyên gia và các bên có liên quan. Nhiều ý kiến góp ý đã được Ban soạn thảo tiếp thu, sửa đổi với mong muốn dự thảo Thông tư này khi được ban hành sẽ đơn giản hóa, thống nhất hóa quy định kiểm tra xác định xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để tạo ra sự tương tác nhanh nhất, đơn giản nhất giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam tham gia nhiều Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, việc cơ quan Hải quan kiểm tra để đảm bảo rằng trong từng hiệp định, từng cam kết các doanh nghiệp được đối xử bình đẳng, thủ tục kiểm tra nhanh nhất có thể. Tinh thần chung khi xây dựng dự thảo Thông tư này là kiểm tra thực chất hàng hóa có đảm bảo được sản xuất ra phù hợp, đủ tiêu chuẩn hưởng ưu đãi thuế quan trong Hiệp định thương mại tự do mà các nước dành cho nhau hay không. Cơ quan Hải quan không chú trọng kiểm tra mang tính kỹ thuật, hình thức, thay vì đi bắt lỗi các tổ chức cấp giấy chứng nhận xuất xứ, hay các doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ thì cơ quan Hải quan sẽ đi vào kiểm tra thực chất, đánh giá khả năng từ nước, lãnh thổ có sản xuất ra hàng hóa đó không; hoặc quá trình chuyển tải có làm sai lệch xuất xứ hay không. Cơ quan Hải quan mong muốn doanh nghiệp nhìn thấy rõ nét hướng đi, cách tư duy mới tại dự thảo Thông tư này. Một trong những điểm nổi bật tại dự thảo Thông tư này là doanh nghiệp được phép chậm nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa. Hiện nay có hiệp định quy định thời gian chậm nộp là 1 năm, có hiệp định 30 ngày, có hiệp định 2 năm, nghĩa là trong thời hạn đó nộp chứng nhận xuất xứ thì được hưởng ưu đãi của hiệp định. Nhưng quy định hiện nay có quy định để được hưởng ưu đãi doanh nghiệp phải khai xin chậm nộp. Nghĩa là đặt thêm điều kiện để cơ quan Hải quan theo dõi. Tuy nhiên, theo dự thảo Thông tư mới sẽ thay đổi điều này, doanh nghiệp không nhất thiết phải khai chậm nộp, đó là quyền của doanh nghiệp, khi nào xuất trình chứng từ chứng nhận xuất xứ thì được hưởng ưu đãi. Hơn nữa, trong quản lý xuất xứ hàng hóa, có hai nhóm đối tượng gồm: hàng nhập khẩu và hàng xuất khẩu. Việt Nam có độ mở của nền kinh tế rất lớn, cơ quan Hải quan xem trọng hàng xuất khẩu ngang hàng nhập khẩu. Bởi hàng nhập khẩu hôm nay có thể sai nhưng trong vòng 5 năm cơ quan Hải quan vẫn có thể kiểm tra được, nhưng hàng xuất khẩu đi rồi, đó là uy tín, là thương hiệu hàng Việt Nam. Do đó, nếu càng quản lý chặt cấp chứng nhận xuất xứ hàng hóa thì việc đầu tư thực chất để nâng cao giá trị gia tăng của hàng Việt Nam sẽ càng lớn hơn, không tạo thuận lợi tràn lan nhưng về dài hạn lại thiệt hại lớn. Những doanh nghiệp làm ăn chân chính bị ảnh hưởng lây. Cơ quan Hải quan muốn phổ biến những quy định pháp luật mới, với những điểm cải cách mới, qua đó doanh nghiệp nghiên cứu, góp ý, đồng thuận và chấp hành để tạo ra bước phát triển vững chắc cho hoạt động thương mại hàng hóa. Bà Bùi Kim Thùy, Đại diện cấp cao tại Việt Nam, Hội đồng kinh doanh Hoa Kỳ-ASEAN, Chuyên gia Dự án Liên minh toàn cầu về tạo thuận lợi thương mại: Gia tăng lợi ích cho doanh nghiệp Công tác quản lý xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đóng vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại. Quản lý xuất xứ hàng hóa phù hợp không có nghĩa là cứ áp dụng máy móc điều khoản tốt nhất từ quốc tế về Việt Nam; phù hợp nghĩa là những điều khoản phù hợp với bối cảnh Việt Nam để quản lý xuất xứ hàng hóa xuất nhập khẩu theo hướng thuận lợi hóa thương mại thay vì việc theo hướng cản trở thương mại. Xuất xứ hàng hóa có thể sử dụng như một phương tiện, công cụ giúp thúc đẩy hoạt động thương mại hợp pháp, hợp lý, tiết kiệm nguồn lực thay vì được sử dụng như là công cụ để cản trở thương mại và vô hình trung tạo thành rào cản trong hoạt động thương mại. Thời gian qua, nhiều doanh nghiệp đánh giá rất cao các hoạt động của Ban soạn thảo cũng như Hải quan Việt Nam trong quá trình tham vấn lấy ý kiến các bên liên quan để có bản dự thảo với nhiều điều khoản theo hướng tạo thuận lợi thương mại. Thủ tục hành chính không thực chất giảm thiểu, những quy định nặng về mặt giấy tờ đã thay thế bằng những điều khoản tiến bộ, phù hợp với các cam hết quốc tế, đặc biệt là phù hợp với các hiệp định thương mại tự do mà gần đây Việt Nam cũng như ASEAN tham gia. Trong rất nhiều điểm cải cách phải kể đến việc điều chỉnh cụm từ “ngày” thành “ngày làm việc” tại dự thảo Thông tư. Cụm này tuy nhỏ nhưng rất có lợi cho cộng đồng doanh nghiệp. Giúp cho doanh nghiệp có thêm thời gian chuẩn bị hồ sơ chứng từ trong trường hợp phải nộp, xuất trình cho cơ quan Hải quan. Bên cạnh đó, việc xác định trước xuất xứ, tại thời điểm công bố, thông báo xác định trước xuất xứ thì doanh nghiệp không phải nộp chứng từ chứng nhận xuất xứ cho hàng hóa đó. Đây cũng là điểm nổi bật. Bên cạnh đó, điểm thay đổi lớn tại dự thảo Thông tư là cho phép bảo lãnh thuế đối với trường hợp doanh nghiệp, cơ quan Hải quan đang trong quá trình chờ kết quả xác minh xuất xứ từ cơ quan hữu quan của nước xuất khẩu. Điều này tạo thuận lợi rất lớn cho doanh nghiệp vì nếu nước xuất khẩu trả lời chậm, muộn và doanh nghiệp không được bảo lãnh thuế thì nguồn tiền của doanh nghiệp bị tồn đọng không quay vòng được trong bối cảnh hậu Covid-19 vẫn còn khó khăn. Trong số các điểm cải cách tại dự thảo này phải kể đến quy định về cụ thể hóa điều khoản cho phép cơ quan Hải quan trực tiếp kiểm tra tại bên xuất khẩu, bao gồm nước xuất khẩu, vùng lãnh thổ xuất khẩu, nhóm quốc gia xuất khẩu. Điều này làm gia tăng quyền lực của cơ quan Hải quan khi kiểm tra trực tiếp tại nơi sản xuất ra hàng hóa đó tại nước xuất khẩu, là điều trước đây có làm nhưng còn ít. Hy vọng điều này gia tăng được tính chính xác, xác thực được tính chắc chắn của hàng hóa khi nhập khẩu vào lãnh thổ Việt Nam, từ đó bảo vệ được người dân, người tiêu dùng Việt Nam. |
Tin liên quan
Những thông tin hấp dẫn trên Tạp chí Hải quan số 103 phát hành ngày 24/12/2024
19:18 | 23/12/2024 Thông báo
Công bố 10 sự kiện nổi bật ngành Công Thương năm 2024
19:19 | 23/12/2024 Kinh tế
Đảm bảo năng lực tài chính của các tổ chức phát hành trái phiếu ra công chúng
13:48 | 22/12/2024 Chính sách và Cuộc sống
Đề xuất giảm 30% tiền thuê đất năm 2024
08:00 | 19/12/2024 Chính sách và Cuộc sống
Gỡ vướng liên quan đến thủ tục và chính sách thuế cho doanh nghiệp
08:29 | 17/12/2024 Chính sách và Cuộc sống
Đề xuất 2 ngưỡng nợ thuế áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh
19:39 | 13/12/2024 Chính sách và Cuộc sống
Hải quan Quảng Ngãi: Khó quản lý thuế đối với mặt hàng dăm gỗ xuất khẩu
13:30 | 13/12/2024 Chính sách và Cuộc sống
Thực thi các FTA: Những vấn đề đặt ra trong quản lý thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu
13:20 | 13/12/2024 Chính sách và Cuộc sống
Hướng dẫn thủ tục hải quan đối với hàng thương mại điện tử xuyên biên giới
15:12 | 12/12/2024 Chính sách và Cuộc sống
Gỡ vướng mọi lúc, mọi nơi cho doanh nghiệp
17:37 | 09/12/2024 Hải quan
Chủ động lắng nghe tiếng nói từ cộng đồng doanh nghiệp
17:36 | 09/12/2024 Chính sách và Cuộc sống
Nghiên cứu, báo cáo cấp có thẩm quyền chính sách thuế bất động sản vào thời điểm thích hợp
17:21 | 09/12/2024 Chính sách và Cuộc sống
Chống thất thu ngân sách khi bỏ quy định miễn thuế hàng giá trị nhỏ
10:02 | 06/12/2024 Chính sách và Cuộc sống
Sẽ bãi bỏ miễn thuế GTGT đối với hàng giá trị nhỏ NK qua đường chuyển phát nhanh
09:59 | 06/12/2024 Chính sách và Cuộc sống
Những điểm mới về mua sắm, khai thác, cho thuê tài sản công
09:00 | 04/12/2024 Chính sách và Cuộc sống
Vấn đề Bạn quan tâm
Tin mới
Cơn khát căn hộ tại lõi trung tâm nội đô tiếp tục tiếp diễn
Công bố 10 sự kiện nổi bật ngành Công Thương năm 2024
Những thông tin hấp dẫn trên Tạp chí Hải quan số 103 phát hành ngày 24/12/2024
Chìa khóa để TPHCM tiến vào kỷ nguyên mới, vươn lên cùng khát vọng dân tộc
Kim ngạch xuất nhập khẩu tiến tới mốc lịch sử khoảng 800 tỷ USD
(Infographics) Tổng thu từ xuất nhập khẩu các tỉnh, thành vùng Tây Nguyên
10:50 | 15/12/2024 Hải quan
(INFOGRAPHICS) Kim ngạch hơn 67 tỷ USD, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam
11:29 | 04/12/2024 Infographics
(INFOGRAPHICS): Tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp tham gia chương trình tự nguyện tuân thủ
16:30 | 06/12/2024 Infographics
(INFOGRAPHICS) Tổng thu từ XNK các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ
16:33 | 06/12/2024 Xuất nhập khẩu
(INFOGRAPHICS) 66 tỷ USD kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 11
14:29 | 12/12/2024 Infographics