Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách cho thu hút FDI
(HQ Online) - Nghị quyết số 50-NQ/TW về “Định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030” của Bộ Chính trị đã chỉ ra nhiều chính sách mới, cũng như việc đổi mới hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài (FDI). Ông Vũ Đại Thắng, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, điều này sẽ giúp chúng ta bình đẳng hơn, chủ động hơn khi làm việc với các nhà đầu tư FDI cũng như đề cao trách nhiệm của các nhà đầu tư nước ngoại tại Việt Nam.
Ông Vũ Đại Thắng. |
Thưa ông, cơ sở nào để Nghị quyết 50-NQ/TW đặt ra rất nhiều mục tiêu cụ thể về tăng trưởng đầu tư nước ngoài?
Những con số này dựa trên sự tính toán và khả năng chúng ta cần phải đạt đến trong mục tiêu phát triển kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2021-2030, kịch bản chúng tôi đưa ra là 6,5-7%. Vì thế, tổng vốn FDI chúng tôi đưa vào kịch bản là chiếm khoảng 20-25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, nếu chúng ta đạt được nguồn vốn này thì các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chúng ta mới có thể đạt được. Ngoài ra, việc lựa chọn kịch bản vốn FDI khoảng 20-25% nhằm đảm bảo có tính lan tỏa vốn FDI với trong nước, đảm bảo tính tự chủ của nền kinh tế.
Nhưng bên cạnh các mục tiêu về số lượng, Nghị quyết cũng đưa ra rất nhiều mục tiêu về chất lượng. Ví dụ như tỷ lệ về khoa học công nghệ, tỷ lệ lao động qua đào tạo… đây là những mục tiêu để khẳng định chúng ta tập trung hơn cho những dự án chất lượng cao, dự án có hàm lượng khoa học công nghệ cao, không chỉ sử dụng nguồn lao động giản đơn mà phải là lao động có chuyên môn, đã qua đào tạo.
Hiện các quốc gia khác đều có chính sách thu hút FDI, xin ông cho biết điểm hấp dẫn trong thu hút đầu tư của Việt Nam so với các quốc gia khác?
Chính vì bối cảnh như trên nên Việt Nam đã đặt ra định hướng về thu hút đầu tư nước ngoài mới, tập trung rất nhiều vào phần thể chế. Nghĩa là chúng ta sẽ hoàn thiện thể chế chính sách để đảm bảo có môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng nhất, tạo điều kiện hỗ trợ, phục vụ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Do vậy, trong các Nghị quyết của Chính phủ về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh đều đặt ra các mục tiêu về cải cách thủ tục hành chính, giảm thời gian thực hiện... Ngoài ra, chúng ta không thể giữ mãi lợi thế thu hút FDI bằng nhân công giá rẻ, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên… bởi những vấn đề này đã bắt đầu tới hạn. Cho nên, Việt Nam không thể còn gì khác ngoài hệ thống thể chế chính sách thông thoáng. Bên cạnh đó, chúng ta vẫn phải tìm ra và tập trung nhiều vào những tiềm năng lợi thế lớn, đặc biệt là tiềm năng về con người.
Nhưng cùng với việc tạo cơ chế thông thoáng, chúng ta cũng có những hệ thống chính sách để hạn chế tác động ngược mà đầu tư nước ngoài mang lại ví dụ như chuyển giá, gian lận thuế…
Chính sách, định hướng về nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác nhà đầu tư nước ngoài đã yêu cầu phải chọn lọc nhà đầu tư, điều này cần được hiểu cụ thể như thế nào, thưa ông?
Nghị quyết của Bộ Chính trị lần này đã đưa ra những định hướng chủ trương về thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn tới nhằm phát huy hết hiệu quả của nguồn vốn quan trọng này. Đặc biệt, Nghị quyết đã sử dụng chữ “hợp tác” chứ không phải thu hút và sử dụng, nó thể hiện sự bình đẳng, chủ động của chúng ta trong làm việc với các đối tác nước ngoài và đề cao hơn nữa trách nhiệm của các nhà đầu tư nước ngoài khi họ đầu tư vào Việt Nam. Với tính chất hợp tác như vậy, chúng ta cũng sẽ có những bộ lọc từ các lĩnh vực như: Môi trường, công nghệ… để có các dự án FDI đáp ứng yêu cầu của chúng ta về môi trường, công nghệ, hạn chế sử dụng lao động giản đơn…
Với quy định này, chúng ta vẫn thực hiện được vấn đề bảo vệ nhà đầu tư nước ngoài. Bởi pháp luật cũng có những quy định về bảo vệ nhà đầu tư thông qua một loạt cơ chế như tiếp tục xây dựng điều chỉnh hiệp định bảo hộ nhà đầu tư đối với các quốc gia, sử dụng cơ chế trọng tài, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của Chính phủ… Vì thế, với những tiêu chí mà Nghị quyết của Bộ Chính trị đặt ra, sẽ có những dự án FDI đã đầu tư nhưng sử dụng công nghệ lạc hậu, chúng ta không thể xóa bỏ được ngay mà sẽ có biện pháp vận động doanh nghiệp tự thay đổi, tự đổi mới những công nghệ mới. Ngoài ra, chúng ta cũng có những biện pháp như không cho phép gia hạn nếu DN không thay đổi công nghệ, không cho mở rộng sản xuất nếu vẫn sử dụng những công nghệ cũ…
Xin cảm ơn ông!