Kiểm soát chặt các chỉ tiêu an toàn nợ công
Điểm mới trong Chiến lược nợ công | |
Giữ an toàn nợ công, đầu tư phải hiệu quả | |
Còn nhiều yếu tố tác động đến an toàn nợ công |
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet) |
Các chỉ tiêu nợ công nằm trong giới hạn
Báo cáo của Chính phủ về tình hình nợ công năm 2022 và dự kiến năm 2023 cho thấy, trên cơ sở thực hiện vay, trả nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia đến cuối tháng 9/2022, dự kiến các chỉ tiêu nợ đến cuối năm 2022 nằm trong giới hạn trần và ngưỡng cảnh báo an toàn đã được Quốc hội quyết định.
Trong năm 2022, yêu cầu tổng khối lượng huy động vốn của Chính phủ đạt khoảng 619.492 tỷ đồng. Khối lượng huy động vốn nêu trên nhằm mục tiêu đáp ứng nhu cầu của ngân sách nhà nước (NSNN). Trong trường hợp thu ngân sách đạt khá, giải ngân vốn đầu tư công nguồn ngân sách trung ương (NSTƯ) chậm, khối lượng huy động sẽ được điều chỉnh giảm dẫn đến tỷ lệ an toàn nợ công giảm tương ứng.
Từ đầu năm đến nay, nguồn huy động vốn của Chính phủ chủ yếu từ nguồn vay trong nước 569.976 tỷ đồng (chiếm 92%), chủ yếu thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ (TPCP); rút vốn vay ODA, vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài khoảng 49.515 tỷ đồng (chiếm 8%), trong đó cấp phát NSTƯ khoảng 30.070 tỷ đồng và vay nước ngoài về cho vay lại khoảng 19.446 tỷ đồng. Đối với huy động vốn nước ngoài, trong 9 tháng đầu năm 2022, Chính phủ đã đàm phán, ký kết 2 hiệp định vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài với tổng giá trị khoảng 184,6 triệu USD. Dự kiến đến cuối năm 2022, sẽ tiếp tục đàm phán, ký kết 06 hiệp định, thỏa thuận vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài với tổng trị giá khoảng 188 triệu USD.
Liên quan đến thực hiện nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ, tổng trả nợ của Chính phủ năm 2022 ước khoảng 324.583 tỷ đồng, trong đó, trả nợ trực tiếp khoảng 294.300 tỷ đồng, đạt 98% dự toán, trả nợ vay nước ngoài về cho vay lại ước khoảng 30.283 tỷ đồng. Nghĩa vụ trả nợ các khoản vay trong nước chiếm trên 82% tổng nghĩa vụ trả nợ của NSTƯ. Chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ năm 2022 so với thu NSNN khoảng 18-19%, đảm bảo trong phạm vi mức trần 25% được Quốc hội cho phép. Trong khi đó, về thực hiện hạn mức bảo lãnh chính phủ, hoạt động vay, trả nợ Chính phủ bảo lãnh năm 2022 nằm trong hạn mức được phê duyệt.
Với những kết quả nói trên, theo đánh giá của Chính phủ, các chỉ tiêu an toàn nợ công đến cuối năm 2022 tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ trong giới hạn được Quốc hội phê chuẩn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia và góp phần củng cố tính bền vững của chính sách tài khóa, tạo dư địa dự phòng để có thể chủ động ứng phó với rủi ro vĩ mô. Cơ cấu nợ Chính phủ đến cuối năm 2022 tiếp tục duy trì theo kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025 và định hướng Chiến lược nợ công đến năm 2030 đã đề ra. Dư nợ trong nước tăng lên, chiếm 70% dư nợ Chính phủ, chủ yếu là TPCP có kỳ hạn phát hành dài (trung bình khoảng 13,78 năm tính đến 14/9/2022); nợ nước ngoài chủ yếu vẫn là vay ODA, vay ưu đãi dài hạn, góp phần giảm thiểu rủi ro tỷ giá, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Ngoài ra, nợ được Chính phủ bảo lãnh tiếp tục xu hướng giảm mạnh từ mức 8,8% GDP năm 2015 xuống còn khoảng 3,2% GDP năm 2022.
Huy động vốn với chi phí thấp và mức độ rủi ro hợp lý
Trong năm 2022, công tác quản lý, sử dụng nợ công tiếp tục được tăng cường, ngày càng hiệu quả hơn. Chiến lược nợ công đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là cơ sở quan trọng để tiếp tục cải cách công tác quản lý nợ công bền vững, hiệu quả. Thực hiện đúng mục tiêu quản lý nợ theo Chiến lược đề ra, một loạt biện pháp huy động vốn đã được triển khai với chi phí thấp gắn liền với mức độ rủi ro hợp lý; điều chỉnh cơ cấu và khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn cũng như điều kiện thị trường. Bên cạnh đó, tiếp tục thúc đẩy phát triển thị trường TPCP trong nước thông qua đa dạng hóa các sản phẩm và mở rộng cơ sở nhà đầu tư dài hạn. Đồng thời, chú trọng xây dựng đồng bộ hệ thống công cụ quản lý nợ công, tăng cường kiểm tra, giám sát việc vay về cho vay lại, không cấp bảo lãnh chính phủ cho các khoản vay mới; thúc đẩy, hỗ trợ công tác giải ngân, đảm bảo trả nợ đúng hạn.
Cũng theo Chính phủ, việc tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng vốn vay và nợ công cũng đã được quán triệt nghiêm. Căn cứ Luật Quản lý nợ công và Nghị quyết 07-NQ/TW, thời gian qua, việc huy động vốn để đáp ứng nhiệm vụ chi của NSNN đã đạt kết quả tích cực, từng bước sát với nhu cầu thực tế, giảm thiểu rủi ro. Đối với huy động TPCP trong nước, kỳ hạn, lãi suất đã diễn biến thuận lợi hơn giai đoạn trước. Các nguồn lực có chi phí thấp được sử dụng linh hoạt, cơ sở nhà đầu tư được đa dạng hóa để giảm thiểu phụ thuộc vào ngân hàng thương mại. Đối với huy động vốn ODA, ưu đãi nước ngoài, trong bối cảnh vốn ODA giảm, điều kiện vay tiến sát thị trường, các chương trình, dự án được sàng lọc kỹ và phải hoàn thành thủ tục đầu tư mới đàm phán ký kết đảm bảo lợi ích quốc gia.
Bên cạnh đó, năm 2022, Việt Nam cũng triển khai có hiệu quả công tác xếp hạng tín nhiệm (XHTN) quốc gia thể hiện qua việc hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam liên tục được các tổ chức nâng hạng. Cụ thể, ngày 26/5/2022, tổ chức S&P nâng từ mức BB lên mức BB+, triển vọng Ổn định; ngày 6/9/2022, tổ chức Moody’s nâng từ mức Ba3 lên mức Ba2, triển vọng Ổn định. Hiệu quả kiểm soát nợ công an toàn, bền vững trong khi vẫn điều hành chính sách tài khóa linh hoạt để hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế được các tổ chức xếp hạng ghi nhận là một trong những yếu tố chính đóng góp vào quyết định nâng hạng. So với mục tiêu đạt mức xếp hạng Đầu tư đề ra tại Đề án Cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia đến năm 2030, Việt Nam còn cách một bậc đối với thang điểm của S&P và hai bậc đối với thang điểm của Moody’s. Việc nâng hạng tín nhiệm của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu nhiều biến động và thách thức có ý nghĩa hết sức tích cực, góp phần nâng cao uy tín quốc gia cũng như tạo hiệu ứng lan toả cho toàn bộ nền kinh tế, có tác động giảm chi phí vay của Chính phủ, doanh nghiệp và tổ chức tín dụng, thu hút thêm các nguồn vốn từ các nhà đầu tư tiềm năng, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Tin liên quan
Đảm bảo năng lực tài chính của các tổ chức phát hành trái phiếu ra công chúng
13:48 | 22/12/2024 Chính sách và Cuộc sống
Tội phạm lĩnh tài chính trên không gian mạng ngày càng phức tạp
14:43 | 18/12/2024 An ninh XNK
Ngành Hải quan triển khai công tác năm 2025
21:58 | 16/12/2024 Hải quan
Chính sách thuế tạo động lực mạnh mẽ cho phục hồi và phát triển
08:36 | 23/12/2024 Tài chính
Phát hành trái phiếu chính phủ đã đáp ứng vốn ngân sách với chi phí hợp lý
10:50 | 22/12/2024 Thuế - Kho bạc
KBNN đảm bảo thu - chi ngân sách kịp thời, điều hành ngân quỹ tập trung
20:30 | 20/12/2024 Thuế - Kho bạc
Bộ trưởng Bộ Tài chính yêu cầu KBNN khẩn trương sắp xếp, đảm bảo bộ máy mới hoạt động ngay
20:22 | 20/12/2024 Thuế - Kho bạc
Cục Thuế TP Hồ Chí Minh tuyên dương 136 doanh nghiệp nộp thuế tiêu biểu
18:26 | 20/12/2024 Thuế - Kho bạc
Nhiều nỗ lực để bình ổn giá trong cao điểm lễ, tết 2025
07:51 | 20/12/2024 Tài chính
Chính thức kích hoạt Cổng thông tin dành cho hộ cá nhân kinh doanh thương mại điện tử
21:23 | 19/12/2024 Thuế - Kho bạc
Ngành Thuế cần hướng tới tinh giản bộ máy theo mô hình quốc tế đảm bảo hiệu lực, hiệu quả
21:19 | 19/12/2024 Thuế - Kho bạc
Ngành Thuế về đích thu ngân sách với tổng số thu ước đạt hơn 1,7 triệu tỷ đồng
16:27 | 19/12/2024 Thuế - Kho bạc
Thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, bền vững
21:18 | 18/12/2024 Chứng khoán
Tổng kiểm kê tài sản công giúp quản lý, sử dụng hiệu quả hơn nguồn lực của đất nước
21:13 | 18/12/2024 Tài chính
Đảm bảo hiệu quả và minh bạch trong quản lý, xử lý nhà đất tại doanh nghiệp nhà nước
08:24 | 16/12/2024 Tài chính
Kiến nghị thu hồi giấy phép kinh doanh nếu cửa hàng xăng dầu không xuất hoá đơn từng lần bán hàng
15:50 | 14/12/2024 Thuế - Kho bạc
Vấn đề Bạn quan tâm
Tin mới
Công bố 10 sự kiện nổi bật ngành Công Thương năm 2024
Những thông tin hấp dẫn trên Tạp chí Hải quan số 103 phát hành ngày 24/12/2024
Chìa khóa để TPHCM tiến vào kỷ nguyên mới, vươn lên cùng khát vọng dân tộc
Kim ngạch xuất nhập khẩu tiến tới mốc lịch sử khoảng 800 tỷ USD
Thu giữ khoảng 11 tấn pháo trong các thùng hàng có hình quả táo
(Infographics) Tổng thu từ xuất nhập khẩu các tỉnh, thành vùng Tây Nguyên
10:50 | 15/12/2024 Hải quan
(INFOGRAPHICS) Kim ngạch hơn 67 tỷ USD, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam
11:29 | 04/12/2024 Infographics
(INFOGRAPHICS): Tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp tham gia chương trình tự nguyện tuân thủ
16:30 | 06/12/2024 Infographics
(INFOGRAPHICS) Tổng thu từ XNK các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ
16:33 | 06/12/2024 Xuất nhập khẩu
(INFOGRAPHICS) 66 tỷ USD kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 11
14:29 | 12/12/2024 Infographics