5 nguyên tắc trong quản lý tài chính đối với vốn viện trợ nước ngoài
(HQ Online) - Dự thảo Thông tư hướng dẫn quản lý tài chính nhà nước đối với nguồn viện trợ không hoàn lại của nước ngoài thuộc nguồn thu ngân sách nhà nước đang được Bộ Tài chính xây dựng.
Việc điều chỉnh, bổ sung dự toán thu chi đối với vốn viện trợ chi đầu tư phát triển phải gửi Bộ KH&ĐT. Ảnh: ST |
Nghiêm cấm việc thuê, mượn tài khoản để tiếp nhận vốn viện trợ nước ngoài
Theo Dự thảo thông tư quy định về lập Kế hoạch tài chính vốn viện trợ thuộc nguồn thu ngân sách nhà nước, có 3 loại kế hoạch: kế hoạch dự toán thu chi viện trợ hàng năm; kế hoạch tài chính vốn viện trợ giai đoạn 3 năm; kế hoạch tài chính vốn viện trợ giai đoạn 5 năm. Trong đó, việc lập dự toán thu chi vốn viện trợ hằng năm phải đảm bảo nguyên tắc các khoản viện trợ chỉ được tổng hợp vào dự toán thu chi vốn viện trợ hằng năm khi đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt tiếp nhận (Quyết định phê chủ trương đầu tư/Quyết định chủ trương thực hiện/Quyết định phê duyệt văn kiện dự án/phi dự án).
Về điều chỉnh, bổ sung dự toán thu chi vốn viện trợ hàng năm, dự thảo thông tư quy định, trường hợp phát sinh các chương trình/dự án/phi dự án mới trong năm làm vượt tổng mức dự toán vốn viện trợ được giao ban đầu cho các cơ quan chủ quản thì cơ quan chủ quản tổng hợp nhu cầu bổ sung kế hoạch vốn hàng năm gửi Bộ Tài chính đối với vốn viện trợ chi thường xuyên và gửi Bộ KH&ĐT đối với vốn viện trợ chi đầu tư phát triển để tổng hợp trình cấp có thẩm quyền xem xét quyết định theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư công.
Việc quản lý tài chính đối với vốn viện trợ phải đảm bảo 5 nguyên tắc. Một là, viện trợ thuộc nguồn thu ngân sách phải được lập dự toán, hạch toán và quyết toán ngân sách nhà nước theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn liên quan theo phân cấp quản lý ngân sách như sau: Bộ Tài chính thực hiện quản lý thu, chi ngân sách trung ương đối với các nguồn viện trợ thuộc nguồn thu ngân sách Trung ương; Sở Tài chính, Kho bạc Nhà nước tại địa phương thực hiện quản lý thu, chi ngân sách địa phương đối với các khoản viện trợ thuộc nguồn thu ngân sách địa phương và phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện ghi thu, ghi chi ngân sách địa phương đối với các khoản viện trợ thuộc nguồn thu ngân sách trung ương ghi chi bổ sung có mục tiêu cho địa phương. Hai là, bảo đảm công khai, minh bạch và đề cao trách nhiệm của chủ dự án, cơ quan chủ quản trong tiếp nhận, quản lý, sử dụng hiệu quả vốn viện trợ. Ba là, nghiêm cấm việc dùng tài khoản cá nhân, thuê mượn hoặc nhờ tài khoản của cơ quan, đơn vị khác để tiếp nhận nguồn vốn viện trợ nước ngoài tài trợ cho các dự án. Bốn là, các khoản viện trợ theo hình thức phía Việt Nam trực tiếp quản lý điều hành được kiểm soát chi qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Năm là, các chủ khoản viện trợ chịu trách nhiệm quản lý và sử dụng vốn viện trợ theo đúng các quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ước, thỏa thuận, viện trợ đã ký kết. Trong trường hợp các quy định hoặc điều kiện viện trợ của nhà tài trợ khác với quy định của pháp luật Việt Nam thì phải tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam. Trường hợp các quy định, điều kiện viện trợ được quy định trong Điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc là thành viên thì việc thực hiện tuân thủ theo quy định tại Điều ước quốc tế.
Viện trợ khẩn cấp xây dựng vào dự toán năm sau nếu không kịp dự toán trong năm
Liên quan đến kiểm soát chi đối với vốn viện trợ bằng tiền, dự thảo Thông tư quy định, các khoản viện trợ quốc tế khẩn cấp bằng tiền để cứu trợ và khắc phục hậu quả thiên tai tiếp nhận theo quy định tại Nghị định số 50/2020/NĐ-CP, đối với trường hợp khoản viện trợ khẩn cấp phát sinh mới kịp tổng hợp trong dự toán được cấp có thẩm quyền phân bổ và giao kế hoạch hoặc kịp lập dự toán bổ sung theo quy định pháp luật ngân sách nhà nước, việc kiểm soát và thanh toán vốn viện trợ thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 19 của Nghị định số 50/2020/NĐ-CP. Trường hợp khoản viện trợ khẩn cấp phát sinh mới trong năm sau thời điểm lập dự toán ngân sách hoặc không kịp bổ sung trong năm, bên tiếp nhận viện trợ thực hiện xây dựng vào dự toán năm sau để làm cơ sở hạch toán và quyết toán NSNN. Kho bạc Nhà nước thực hiện kiểm soát chi nhưng chưa kiểm soát dự toán. Chủ dự án có trách nhiệm hoàn thiện hồ sơ để Kho bạc Nhà nước thực hiện kiểm soát dự toán theo quy định vào năm kế tiếp.
Về nội dung giải ngân và thanh toán vốn viện trợ bằng tiền, dự thảo Thông tư quy định, đối với các khoản viện trợ bằng tiền theo phương thức hỗ trợ trực tiếp ngân sách chung thì tiền ngoại tệ viện trợ được chuyển vào Quỹ ngoại tệ tập trung của NSNN. Việc bán ngoại tệ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện theo kế hoạch bán ngoại tệ được Bộ Tài chính phê duyệt. Việc chi tiêu cho chương trình, dự án, phi dự án thực hiện theo quy định chi tiêu vốn NSNN
Đối với khoản viện trợ bằng tiền theo phương thức hỗ trợ trực tiếp ngân sách có mục tiêu, trường hợp Điều ước quốc tế hoặc Thoả thuận viện trợ không có quy định về việc giải ngân qua ngân hàng phục vụ thì số ngoại tệ được chuyển vào Quỹ ngoại tệ tập trung của NSNN. Trường hợp Điều ước quốc tế hoặc Thoả thuận tài trợ có quy định việc giải ngân qua ngân hàng phục vụ, số ngoại tệ viện trợ được chuyển vào tài khoản của Bộ Tài chính (hoặc của chủ dự án) tại ngân hàng phục vụ.
Đối với các khoản viện trợ theo phương thức hỗ trợ trực tiếp ngân sách có mục tiêu theo danh mục chương trình, dự án cụ thể thì trên cơ sở yêu cầu của chủ chương trình/dự án, căn cứ kết quả kiểm soát chi của Kho bạc Nhà nước, Kho bạc Nhà nước hoặc ngân hàng phục vụ thực hiện giải ngân cho chủ chương trình, dự án theo quy định. Đối với các khoản viện trợ theo phương thức hỗ trợ trực tiếp ngân sách có mục tiêu chưa có danh mục chương trình, dự án cụ thể, cơ quan chủ quản xây dựng phương án phân bổ đối với khoản viện trợ này gửi Bộ KH&ĐT thẩm định đối với vốn chi đầu tư phát triển; gửi Bộ Tài chính thẩm định với vốn chi thường xuyên để báo cáo cấp có thẩm quyền về phương án tiếp nhận phù hợp.
Việc kiểm soát và thanh toán vốn ODA không hoàn lại bằng tiền thực hiện theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 6 Điều 79 của Nghị định số 56/2020/NĐCP. Việc kiểm soát và thanh toán vốn viện trợ không hoàn lại bằng tiền không thuộc hỗ trợ phát triển chính thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài dành cho Việt Nam thực hiện theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 6 Điều 23 của Nghị định số 80/2020/NĐ-CP.
|