Năm 2020 đánh dấu mốc ngành Hải quan hoàn thành Chiến lược phát triển Hải quan 2011-2020 (theo Quyết định số 448/QĐ-TTg ngày 25/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ) để bước vào một giai đoạn phát triển mới cao hơn. |
Qua 10 năm thực hiện, về tổng thể, toàn Ngành đã hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong Chiến lược, trong đó có nhiều nội dung về đích sớm. Đó là xây dựng Hải quan Việt Nam hiện đại, có cơ chế, chính sách đầy đủ, minh bạch, thủ tục hải quan đơn giản, hài hòa đạt chuẩn mực quốc tế, trên nền tảng ứng dụng CNTT, xử lý dữ liệu tập trung, đạt trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á. Xây dựng lực lượng Hải quan đạt trình độ chuyên nghiệp, chuyên sâu có trang thiết bị, ky thuật hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả góp phần tạo thuận lợi cho các hoạt động thương mại hợp pháp, phát triển du lịch, thu hút đầu tư nước ngoài, đảm bảo an ninh quốc gia, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Có thể khẳng định kết quả thực hiện thành công Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020 đã tiếp nối trong tiến trình cải cách hiện đại hóa hải quan, đã đáp ứng các yêu cầu của quản lý hải quan hiện đại, tạo nền tảng cho Hải quan Việt Nam hoàn thành suất sắc nhiệm vụ Đảng và Nhà nước giao phó, theo kịp sự phát triển của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, hệ thống thể chế quản lý nhà nước về Hải quan đã tạo hành lang pháp lý cho việc đổi mới toàn diện hoạt động quản lý nhà nước về hải quan, áp dụng phương pháp quản lý hải quan hiện đại, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thực thi đầy đủ các cam kết quốc tế, hoàn thành các mục tiêu cải cách, phát triển, hiện đại hóa Hải quan. |
10 năm qua (2011-2020), toàn ngành Hải quan đã nỗ lực, tập trung và tranh thủ các nguồn lực, bám sát các yêu cầu, nội dung Chiến lược, quyết liệt trong công tác triển khai nhằm thực hiện thành công Chiến lược. Với vai trò quan trọng thúc đẩy dòng chảy của hoạt động XNK, thủ tục hải quan ngày càng đơn giản, hài hòa, theo chuẩn mực của Hải quan thế giới, tạo cơ sở quan trọng để đẩy mạnh ứng dụng CNTT, sử dụng các trang thiết bị hiện đại trong quản lý nhà nước về Hải quan, góp phần làm thay đổi căn bản phương thức thực hiện thủ tục hải quan từ phương thức thủ công sang phương thức điện tử. Trong đó, quản lý rủi ro đã được áp dụng toàn diện trong các hoạt động nghiệp vụ hải quan, công tác kiểm tra sau thông quan đã được triển khai mạnh mẽ, từng bước đáp ứng yêu cầu chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm. |
10 năm, với vô số những cột mốc về sự phát triển của lưu lượng hàng hóa XNK , tạo thuận lợi cho dòng chảy thương mại đã được ngành Hải quan thiết lập. Đó là, tháng 11/2011, Việt Nam lập thêm một dấu mốc quan trọng thứ 2 khi đạt trị giá kim ngạch XNK 200 tỷ USD. Gần 5 năm sau (cuối tháng 11/2016), Việt Nam cán mốc 300 tỷ USD. Và chỉ hơn 1 năm sau, vào trung tuần tháng 12 năm 2017, kim ngạch XNK của nước ta tăng thêm 100 tỷ USD để thiết lập một dấu mốc mới. Để thiết lập được thành tích ấn tượng trong hoạt động XNK không thể không nhắc đến vai trò quan trọng của Hải quan Việt Nam trong quyết tâm cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm thời gian thông quan hàng hóa. Theo một đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) cũng vào năm 2017, thời gian thông quan hàng XK của nước ta giảm được 3 giờ, hàng hóa NK giảm 6 giờ. Chi phí thông quan một lô hàng giảm 19 USD và ước tính 10 tháng đầu năm 2017, tiết kiệm được 170 triệu USD cho doanh nghiệp. |
Đếm ngược thời gian về năm 2010, trước những yêu cầu đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế, đồng thời Việt Nam là thành viên của nhiều liên minh thuế quan và là mắt xích quan trọng của chuỗi cung ứng thương mại quốc tế, tham dự ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới…, lãnh đạo Tổng cục Hải quan xác định, cần phải sửa đổi Luật Hải quan bởi Luật Hải quan hiện hành đã bộc lộ một số bất cập, hạn chế, cần được bổ sung, hoàn thiện để phù hợp với điều kiện, xu thế phát triển của đất nước.
Gần 2 năm miệt mài, tháng 2/2012 dự thảo Luật Hải quan (sửa đổi) đã thành hình, với bản dự án Luật Hải quan sửa đổi gồm 106 Điều, được bố cục thành 8 Chương (trong đó giữ nguyên 27 Điều; sửa đổi 45 Điều, bổ sung 34 Điều mới)... Dự thảo Luật Hải quan sửa đổi mang trên mình một trọng trách nặng nề, đó là là đổi mới toàn diện hoạt động hải quan thông qua tạo điều kiện áp dụng quản lý hải quan hiện đại phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần bảo vệ lợi ích chủ quyền và an ninh quốc gia; góp phần thu hút đầu tư nước ngoài và nâng cao sức cạnh tranh trong nước và quốc tế của các doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sau gần 3 năm được tập trung trí tuệ tập thể, dự án Luật Hải quan (sửa đổi) đã được trình tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII với đa số ý kiến đại biểu tán thành. Và, ngày 23/6/2014, Luật Hải quan 2014 được Kỳ họp thứ VII, Quốc hội Khóa XIII thông qua và chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2015, đây được xem là bước chuyển mình quan trọng của phương thức quản lý hải quan. Dựa trên nền tảng Luật Hải quan năm 2014, Tổng cục Hải quan đã xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành 1 Nghị quyết của Quốc hội, 14 Nghị định của Chính phủ, 40 Thông tư của Bộ Tài chính và 07 Thông tư liên tịch, kịp thời tháo gỡ các vướng mắc, bất cập phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện, phù hợp với sự phát triển của kinh tế, xã hội. Chưa dừng lại ở đó, Tổng cục Hải quan tham gia xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế số 21/2012/QH13; Luật thuế XK, thuế NK; cùng nhiều nghị định, thông tư về quản lý thuế, kiểm tra, giám sát hải quan… Có thể nói, văn bản quy phạm pháp luật về hải quan qua từng thời kỳ có tính ổn định, phương pháp quản lý phù hợp với từng giai đoạn phát triển và luôn có những bước cải cách, đón đầu hiệu quả trong cải cách thể chế, qua đó đảm bảo cơ sở pháp lý thực hiện các phương thức quản lý hiện đại, không ngừng phát triển để tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại quốc tế, đóng vai trò thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, điện tử hóa đối với các bộ, ngành liên quan. |
Trưởng tiểu ban Hải quan, Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) Nguyễn Ánh Tuyết: Thời gian qua, cộng đồng doanh nghiệp nói chung và VAMA nói riêng đã có cơ hội tham gia ý kiến trong quá trình xây dựng pháp luật Hải quan thông qua các hội thảo được tổ chức bởi Tổng Cục hải quan, các cục hải quan trọng điểm, đây là kênh trao đổi trực tiếp để cơ quan Hải quan tiếp thu ý kiến đóng góp của doanh nghiệp, hiệp hội. Ngoài ra, Hiệp hội cũng thường xuyên tham gia các workshop (nhóm nhỏ) giữa cơ quan Hải quan và doanh nghiệp để trao đổi định kỳ hàng năm về các vấn đề, mặt hàng cụ thể. Các bản dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan Hải quan phụ trách thường dễ dàng theo dõi và phản biện. Hầu hết các kiến nghị, đề xuất của hiệp hội doanh nghiệp đều được cơ quan Hải quan nghiêm túc ghi nhận, xem xét, tiếp thu. |
Nếu VNACCS/VCIS tạo cuộc cách mạng về quá trình thực hiện thủ tục khai báo, thông quan hàng hóa thì Hệ thống quản lý hải quan tự động tạo ra đột phá về quản lý, giám sát hàng hóa XNK trong tình hình mới. Đây là bước đi cụ thể trong cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa hải quan theo Kế hoạch cải cách, phát triển và hiện đại hóa ngành Hải quan giai đoạn 2016-2020 và chiến lược phát triển Hải quan đến 2020. Bởi, VNACCS/VCIS giúp thực hiện thông quan tự động nhanh chóng, còn Hệ thống quản lý hải quan tự động giúp việc giám sát, quản lý các lô hàng XNK một cách nhanh chóng, tiện lợi và theo suốt được lịch sử vận chuyển lô hàng trong quá trình chịu sự giám sát hải quan thông qua phương thức điện tử thay cho cách thức thủ công của công chức hải quan trước đây. Đến nay, thủ tục hải quan ngày càng đơn giản, hài hòa, theo chuẩn mực của Hải quan thế giới, tạo cơ sở quan trọng để đẩy mạnh ứng dụng CNTT, sử dụng các trang thiết bị hiện đại trong quản lý nhà nước về Hải quan. Thủ tục hải quan được thực hiện bằng phương thức điện tử được “phủ sóng” ở 100% cục hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố, các chi cục hải quan trên cả nước, với cơ sở dữ liệu được xử lý tập trung tại cấp Tổng cục Hải quan. Mặt khác, ngành Hải quan đã thực hiện trao đổi thông tin trước khi hàng đến, thanh toán thuế bằng phương thức điện tử với tỷ lệ doanh nghiệp XNK nộp thuế điện tử qua ngân hàng đạt gần 100%, tổng số thu ngân sách qua cổng thanh toán điện tử đạt 98% tổng số thu ngân sách. |
Ứng dụng CNTT của ngành Hải quan đã có bước tiến nhảy vọt. Các hệ thống CNTT đã cơ bản bao phủ toàn bộ các hoạt động nghiệp vụ của ngành Hải quan. Những kết quả ứng dụng CNTT là động lực để xây dựng Hải quan Việt Nam hiện đại, chuyên nghiệp, minh bạch, hiệu quả, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành các mục tiêu cải cách, hiện đại hóa hải quan và tạo thuận lợi thương mại, hướng tới xây dựng Chính phủ điện tử. Đến nay, Tổng cục Hải quan đã xây dựng được hệ thống CNTT hoạt động ổn định, thống suốt, bao phủ và hỗ trợ hầu hết các lĩnh vực trọng yếu về quản lý hải quan như thực hiện thủ tục hải quan, nộp thuế, quản lý hàng hóa tại cảng biển, quản lý rủi ro, kiểm tra sau thông quan, xử lý vi phạm, cung cấp dịch vụ công trực tuyến, thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia, quản lý nội ngành. Có thể kể đến, ngành Hải quan đã xây dựng được hệ thống CNTT hiện đại, cốt lõi là hệ thống thông quan điện tử tự động VNACCS/VCIS và các hệ thống e-Manifest (trao đổi thông tin trước khi hàng đến), e-Payments (thanh toán thuế điện tử), e-C/O, e-Permits (thực hiện qua Cơ chế một cửa quốc gia và Cơ chế một cửa ASEAN), VASSCM (giám sát tự động). Tính đến 31/12/2020, thủ tục hải quan được thực hiện bằng phương thức điện tử trên hệ thống VNACCS/VCIS tại 100% cục hải quan tỉnh, thành phố, 100% chi cục hải quan trên cả nước với 100% loại hình hải quan cơ bản, trên 99,56% tổng số doanh nghiệp thực hiện thủ tục hải quan, đạt 99,32% tổng kim ngạch XNK và hơn 99,63% tổng số tờ khai hải quan trên cả nước. |
Ông Nguyễn Văn Thân, Chủ tịch Hiệp hội DN vừa và nhỏ Việt Nam (VINASME): Chúng tôi tham gia nhiều đoàn khảo sát của Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… đối với ngành Hải quan. Các đoàn khảo sát đánh giá ngành Hải quan đi đầu về cải cách, hiện đại hóa. Đặc biệt là việc thực hiện thủ tục hải quan điện tử với tỷ lệ lên đến 99,6% tờ khai hải quan mỗi năm. Nếu cơ quan Hải quan không điện tử hóa thì số lượng CBCC có tăng gấp đôi hiện nay cũng không xử lý hết khối lượng công việc. Việc ứng dụng CNTT còn giúp ngành Hải quan tinh giản được biên chế, góp phần phát hiện nhanh các vụ buôn lậu, trốn thuế… Đề nghị cơ quan Hải quan tiếp tục duy trì, phát huy kết quản ứng dụng CNTT để tạo thuận lợi hơn nữa cho cộng đồng DN. |
Giai đoạn 2011-2020, ngành Hải quan đã triển khai đầu tư, mua sắm máy móc, trang thiết bị hiện đại phục vụ hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kiểm soát hải quan. Các trang thiết bị được đầu tư, đưa vào sử dụng đã hiện đại hóa công tác kiểm tra giám sát hải quan, giúp minh bạch hóa các khâu trong quy trình thủ tục kiểm tra thực tế hàng hóa, hạn chế các tiêu cực; tăng cường kiểm tra không xâm nhập, giảm kiểm tra thủ công; tiết kiệm chi phí bốc xếp vận chuyển, góp phần rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa XNK, tạo điều kiện hạ giá thành, nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của cả doanh nghiệp cảng và doanh nghiệp XNK, qua đó giúp nâng cao năng lực và hiệu quả kiểm tra, quản lý hải quan. |
Đứng trước yêu cầu quản lý hải quan hiện đại, góp phần tạo thuận lợi cho hoạt động XNK hàng hóa, giao thương quốc tế, ngành Hải quan đã áp dụng toàn diện quản lý rủi ro (QLRR) trong các hoạt động nghiệp vụ hải quan, từng bước đáp ứng yêu cầu chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Có thể khẳng định QLRR là xu thế tất yếu của quản lý hải quan hiện đại. Cơ chế này đã được cơ quan Hải quan của nhiều nước trên thế giới áp dụng như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc... nhất là, trong bối cảnh thương mại quốc tế phát triển mạnh mẽ, giá trị XNK hàng hóa của Việt Nam tăng nhanh. Công tác QLRR ngày càng chứng tỏ được vai trò là phương tiện hữu hiệu của cơ quan Hải quan trong thực hiện “mục tiêu kép” vừa tạo thuận lợi cho hàng hóa XNK, hành khách XNC hợp pháp vừa đảm bảo kiểm soát, phát hiện các trường hợp gian lận và vi phạm trong lĩnh vực hải quan, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Một trong những thành quả quan trọng của công tác QLRR trong sự phát triển của ngành Hải quan đó là công tác phân luồng quyết định kiểm tra trong thực hiện thủ tục hải quan đối với hàng hóa XNK ngày càng hoàn thiện, tỉ lệ phân luồng vượt chỉ tiêu đề ra tại Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020. |
Cục trưởng Cục QLRR Nguyễn Nhất Kha: Bằng việc áp dụng QLRR kết hợp với chuyển đổi từ "tiền kiểm" sang "hậu kiểm", ngành Hải quan đã tạo ra sự thay đổi căn bản trong phương thức quản lý hải quan, từ thủ công sang tự động hóa dựa trên đánh giá rủi ro; qua đó làm giảm đáng kể tỉ lệ kiểm tra thực tế hàng hóa, góp phần đơn giản hoá thủ tục hải quan, giảm thời gian thông quan, tiết kiệm nguồn lực cho cả cơ quan Hải quan và doanh nghiệp, giảm chi phí của doanh nghiệp trong quá trình thông quan hàng hóa XNK. Cùng với đó, quá trình phân luồng được thực hiện hoàn toàn tự động, giảm sự can thiệp của công chức Hải quan trong hoạt động quản lý hải quan và giảm thiểu sự tiếp xúc giữa doanh nghiệp với cơ quan Hải quan. |
Những năm qua, hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi lực lượng Hải quan phải đảm bảo thông suốt hoạt động XNK hàng hóa, tạo thuận lợi tối đa cho hoạt động thương mại, song song với đó phải kiểm soát chặt chẽ hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, góp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, chống thất thu cho ngân sách nhà nước. Nhiệm vụ này được giao cho lực lượng Hải quan chuyên trách chống buôn lậu, nòng cốt là Cục Điều tra chống buôn lậu (Tổng cục Hải quan). Cùng với quá trình đổi mới, cải cách hiện đại hóa, cũng xuất hiện ngày càng nhiều hành vi buôn lậu, gian lận thương mại với những thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt, buôn lậu có tính tổ chức hơn. Trước xu thế và tình hình trên, lực lượng Hải quan chuyên trách chống buôn lậu đã tổ chức lực lượng quản lý chặt chẽ các địa bàn trọng điểm, xác lập nhiều chuyên án, đấu tranh, ngăn chặn, bắt giữ, giải quyết dứt điểm nhiều hiện tượng nổi cộm, vụ việc buôn lậu, gian lận thương mại nghiêm trọng góp phần ổn định thị trường, tạo điều kiện cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp có hoạt động XNK. Liên tiếp những “đại án” ma túy, những lô sừng tê giác “khủng”, những vụ việc gian lận xuất xứ và nguy cơ gian lận xuất xứ hàng hóa Việt Nam được triệt phá thời gian qua là dấu ấn nổi bật trong công tác chống buôn lậu của ngành Hải quan. |
Để đảm bảo sự đầy đủ, toàn diện cũng như huy động sự vào cuộc của toàn ngành Hải quan trong nghiên cứu, xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển ngành Hải quan giai đoạn tới rất cần có 01 Đề án về xây dựng Chiến lược phát triển Hải quan giai đoạn 2021-2030. Đề án được thực hiện sẽ giúp ngành Hải quan đánh giá những thành tựu, tồn tại, hạn chế trong giai đoạn thực hiện Chiến lược vừa qua; nhận diện bối cảnh tác động trong nước và quốc tế, cũng như các thách thức đặt ra cho ngành Hải quan hiện nay và trong giai đoạn 10 năm tiếp theo. Trên cơ sở đó nghiên cứu hoàn thành xây dựng Chiến lược phát triển Hải quan giai đoạn 2021-2030 báo cáo Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đó là, xây dựng Hải quan Việt Nam chính quy, hiện đại, ngang tầm Hải quan các nước có mô hình hải quan phát triển trên thế giới, dẫn đầu trong thực hiện Chính phủ số, với mô hình Hải quan thông minh, Hải quan xanh, mô hình quản lý biên giới thông minh, lực lượng hải quan năng lực cao, chuyên nghiệp và liêm chính. Nâng cao chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp trong thực hiện thủ tục hải quan, quản lý hải quan và thu thuế hiệu quả, tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại, du lịch và vận tải hợp pháp qua biên giới, tạo môi trường XNK thân thiện, minh bạch, công bằng và nhất quán, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, đảm bảo an ninh, an toàn xã hội và bảo vệ lợi ích và chủ quyền quốc gia. |
Nội dung: Quang Hùng Thiết kế: Hoàng Anh Infographics & photos: Tạp chí Hải quan- Phương Anh |