Đó là khẳng định của ông Nguyễn Văn Được, Tổng Giám đốc Công ty TNHH kế toán và tư vấn thuế Trọng Tín với phóng viên Tạp chí Kinh tế - Tài chính khi bàn về vấn đề phân cấp, phân quyền trong công tác quản lý thuế. |
Thưa ông, Nghị định 122/2025/NĐ CP (Nghị định 122) có hiệu lực từ ngày 1/7/2025 được xem là bước tiến quan trọng trong phân cấp, phân quyền trong quản lý thuế. Ông có thể chia sẻ nhận định về tinh thần cải cách hành chính xuyên suốt Nghị định này? |
Nghị định 122 ra đời phù hợp với bối cảnh tinh gọn bộ máy, không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu năng và hiệu lực của công tác quản lý và điều hành vĩ mô của Nhà nước, mà còn có tác động tích cực, tạo thuận lợi đáng kể cho người dân và cộng đồng doanh nghiệp. Thứ nhất: Nghị định 122 ra đời nhằm đáp ứng hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật và cụ thể hóa quyền, trách nhiệm của Chính phủ trong công tác quản lý, điều hành về tài chính, thuế và các nội dung khác có liên quan mà Quốc hội giao. Đồng thời, đây là cơ sở để tiếp tục cụ thể hóa các quy định pháp luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản pháp luật năm 2015. |
Thứ hai: Nghị định 122 lần này đã giao quyền tự chủ và trọng trách rất lớn cho Bộ Tài chính là đơn vị chủ chốt tham mưu và quản lý trực tiếp các lĩnh vực tài chính, thuế. Từ đó sẽ phát huy được quyền tự chủ, tự quyết và tự chịu trách nhiệm cũng như cơ chế trách nhiệm của người đứng đầu là Bộ trưởng Bộ Tài chính với tư cách là tư lệnh ngành Tài chính. Hơn nữa, những quy định tại Nghị định 122 sẽ tăng tính chủ động, linh hoạt và có tính khả thi cao cho cấp dưới (Bộ Tài chính) và giảm áp lực cho Trung ương (Chính phủ); đồng thời vẫn đáp ứng được cơ chế kiểm tra, kiểm soát cũng như nhất quán chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Cách làm này không chỉ nâng cao hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng của bộ máy nhà nước, mà còn tiết kiệm thời gian, nguồn lực cho Trung ương để tập trung giải quyết các vấn đề trọng tâm, trọng điểm, mang tính chiến lược và định hướng. Thứ ba: Khi Bộ Tài chính được giao quyền chủ động, linh hoạt, được thực hiện và giải quyết sâu, rộng sẽ gián tiếp tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, bởi lẽ khi đó các thủ tục được giải quyết nhanh hơn, thuận tiện hơn và sát thực hơn, qua đó tiết kiệm thời gian, chi phí cho xã hội, cũng như tạo sự đồng thuận của người dân và doanh nghiệp. |
Nghị định 122 hướng tới việc người nộp thuế không còn phải nộp giấy tờ mà cơ quan thuế đã có (khai thuế, hoàn thuế...). Theo ông, điều này có ý nghĩa như thế nào trong việc giảm thủ tục cho người nộp thuế? |
Tôi đánh giá cao quy định này, bởi nó không chỉ phù hợp với xu thế chung là Chính phủ điện tử, kinh tế số và xã hội số, mà còn là bước ngoặt lớn để giảm thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho người dân, góp phần tiết kiệm chi phí xã hội, giảm thiểu những nhiễu của cán bộ thừa hành. Đặc biệt, Việt Nam đang đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, thì quy định này là phù hợp với lộ trình và chủ trương chung, góp phần đáng kể cho sự thành công của quá trình chuyển đổi số quốc gia. Các thông tin, tài liệu do cơ quan nhà nước cấp và quản lý, thì phải có nghĩa vụ trao đổi với nhau trong quá trình giải quyết thủ tục hành chính cho người dân. Như vậy thông tin được nhanh hơn, chính xác hơn và người dân cũng được thuận tiện và không phải tốn kém thời gian, chi phí để cung cấp các thông tin này. |
Thực tế quy định này không phải mới, mà đã có tinh thần chỉ đạo và thực hiện từ khá lâu, tuy nhiên chưa được tuyên truyền và chỉ đạo quyết liệt, dẫn đến hiệu quả chưa cao. Do đó, Nghị định 122 lần này luật hóa quy định này không chỉ là hành lang pháp lý để bắt buốc các cơ quan, người có liên quan phải thực hiện, mà còn là cơ sở để người dân, doanh nghiệp giám sát thực hiện, từ đó nâng cao hiệu quả, hiệu lực và hiệu năng của chính sách. |
Để đảm bảo việc phân cấp, phân quyền trong Nghị định 122 thực chất và hiệu quả trong giai đoạn 2025–2027, theo ông cần có những cải tiến gì về thể chế, nguồn lực đào tạo cán bộ, hạ tầng công nghệ thông tin? |
Để đảm bảo việc phân cấp, phân quyền trong Nghị định 122 thực chất và hiệu quả tôi cho rằng, Bộ Tài chính sớm ban hành các văn bản hướng dẫn để tiếp tục cụ thể hóa các nội dung Chính phủ giao cho Bộ Tài chính cũng như các cơ quan cấp cơ sở. Điều này cũng góp phần vào việc đảm bảo bắt nhịp kịp thời, tạo hành lang pháp lý cũng như cơ sở chắc chắn cho các bên thực thi, từ đó cũng góp phần hoàn thiện thể chế, chính sách pháp luật được hiệu quả. Mặt khác, do quá trình tinh gọn bộ máy chưa được hoàn thành dẫn đến có nhiều vướng mắc trong thực hiện. Vì vậy, Chính phủ và Bộ Tài chính cần tăng cường lắng nghe và quyết liệt chỉ đạo, giám sát và giải quyết kịp thời các vướng mắc, đặc biệt là các vướng mắc của người dân, doanh nghiệp. Nêu cao tinh thần trách nhiệm đảm bảo đầy đủ quyền của người dân, doanh nghiệp tránh nhũng nhiêu, gây phiền hà làm ảnh hưởng đến doanh nghiệp và người dân. Hay nói cách khác, nhiệm vụ phục vụ và phụng sự Nhân dân vẫn được đặt lên hàng đầu, tuyệt đối không được có hành vi, tư tưởng chờ đợi, hướng dẫn hay chờ đợi ổn định sau tinh gọn làm cản trở đến hoạt động bình thường của người dân, doanh nghiệp. Mặt khác, việc tinh gọn bộ máy là nhiệm chung và chủ trương của Đảng và Nhà nước. Vì thế, người dân nên được ưu tiên chỉ phải thực hiện các công việc, thủ tục nào mà Nhà nước không thể làm thay, hay nói cách khác các công việc mà các cơ quan nhà nước có thể phối hợp thực hiện được, thì Nhà nước nên làm và cần làm. Như thế không chỉ tiết kiệm thời gian chi phí mà quan trọng hơn là tạo được sự đồng thuận của người dân. |
Ông có thể chỉ ra một số điểm chính việc chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan? |
Có thể thấy rõ hiệu quả trong việc chia sẻ dữ liệu giữa các cơn quan nhà nước. Đơn cử khi triển khai Đề án 06, Công ty TNHH kế toán và tư vấn thuế Trọng Tín đã kiến nghị rất nhiều về việc Bộ công an và Bộ Tài chính cần chủ động cấp và cập nhật mã số định danh thành mã số thuế thay cho người nộp thuế, trừ trường hợp có vướng mắc như có hai mã số thuế thì người nộp thuế mới phải thực hiện thủ tục bổ sung. |
Và đến nay, theo quy định thì từ 1/7/2025, số định danh cá nhân sẽ chính thức được sử dụng thay cho mã số thuế đối với hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh và các cá nhân khác theo quy định tại khoản 7 Điều 35 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 và Điều 7 Thông tư 86/2024/TT-BTC của Bộ Tài chính. Quy định này được đánh giá rất cao và tạo sự đồng thuận lớn trong cộng đồng doanh nghiệp và người dân. |
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông! |