Liên kết- “chìa khóa” phát triển bền vững chuỗi giá trị nông sản
Tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu để nâng giá trị nông sản Chìa khóa mở cánh cửa mới cho doanh nghiệp nông sản “Gia cố” liên kết sản xuất để nâng chất nông sản xuất khẩu |
Trái sầu riêng đang có sự tăng trưởng nhanh chóng về kim ngạch xuất khẩu. Ảnh minh họa: ST |
Mối liên kết ngang và dọc còn lỏng lẻo
8 tháng đầu năm 2024, hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trong cả nước tiếp tục có nhiều điểm sáng, là yếu tố quan trọng tạo ra tăng trưởng của ngành nông nghiệp và khẳng định vai trò nền tảng của nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và phục vụ xuất khẩu. Đặc biệt, nhờ tập trung thực hiện chủ trương tái cơ cấu, ngành nông nghiệp đã duy trì tăng trưởng ở mức cao (năm 2023 tăng 3,83%, cao hơn mức Chính phủ giao). Nhiều chuỗi giá trị ngành hàng được hình thành, phát triển mạnh mẽ. Sản phẩm nông sản của Việt Nam đã có mặt tại các thị trường quốc tế, kể cả thị trường khó tính như Mỹ, EU, Nhật Bản...
Bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam: Để phát triển bền vững chuỗi giá trị nông sản trong tái cơ cấu nông nghiệp phải đẩy mạnh phát triển liên kết giữa các hợp tác xã, hợp tác xã với doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế, Viện nghiên cứu. Các chính sách hỗ trợ thúc đẩy chuỗi giá trị nông sản Việt không thiếu, vấn đề còn lại chính là năng lực, và việc tiếp cận của các tác nhân trong chuỗi. |
Phát biểu tại diễn đàn “Tái cơ cấu nông nghiệp: Giải pháp phát triển hiệu quả và bền vững chuỗi giá trị nông sản” mới đây, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến cho biết, cùng với công tác xúc tiến thương mại, thị trường xuất khẩu nông sản không ngừng mở rộng, xuất khẩu nông sản chuyển mạnh sang chính ngạch và có mặt trên 200 quốc gia, vùng lãnh thổ, đứng thứ 2 Đông Nam Á và đứng thứ 15 thế giới. Nhiều chuỗi giá trị ngành hàng được hình thành, phát triển mạnh mẽ, nhiều sản phẩm nông sản của Việt Nam đã có mặt tại các thị trường quốc tế. Năm 2024, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản dự kiến đạt 55 - 56 tỷ USD. Trong đó, có 11 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên, 6 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 3 tỷ USD.
Cũng theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kết quả này có được một phần quan trọng là nhờ toàn ngành đã thực hiện tái cơ cấu, gắn với đảm bảo tính hiệu quả bền vững trong chuỗi giá trị nông sản. Các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị được phát triển phù hợp với điều kiện sản xuất của vùng, tiểu vùng và từng địa phương để nâng cao giá trị sản phẩm. Thông qua liên kết, nhiều doanh nghiệp đã xác lập mối quan hệ bền vững giữa sản xuất và chế biến, tạo ra vùng nguyên liệu ổn định, gắn với yêu cầu bảo đảm tiêu chí về an toàn vệ sinh thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu hàng hóa
Bà Cao Xuân Thu Vân, Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam cho biết, hiện nay, cả nước đang có trên 4.000 HTX tham gia liên kết theo chuỗi giá trị (chiếm gần 13% tổng số HTX).
“Có thể nói, để thúc đẩy tiêu thụ nông sản một cách tốt nhất và nâng cao giá trị cho nông sản Việt thì việc phát triển hiệu quả và bền vững chuỗi giá trị nông sản là vấn đề sống còn trong tái cơ cấu nông nghiệp. Điều này nhằm đáp ứng cho thị trường quốc tế đang tiếp tục mở rộng cho Việt Nam với gần 20 Hiệp định thương mại tự do đã ký kết và đàm phán, cũng như đáp ứng nhu cầu cho thị trường trong nước với quy mô hơn 100 triệu dân”, bà Cao Xuân Thu Vân cho biết thêm.
Tuy nhiên, theo Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam cần nhìn nhận một thực tế là vẫn còn nhiều mặt hạn chế và thách thức nhất định cho việc phát triển bền vững chuỗi giá trị nông sản. Trong đó, hạn chế lớn nhất hiện nay là mối liên kết giữa các tác nhân trong cùng một khâu (liên kết ngang) cũng như giữa các khâu (liên kết dọc) trong chuỗi giá trị còn lỏng lẻo. Thêm vào đó, liên kết giữa các tổ hợp tác, HTX trong một số ngành hàng cũng chỉ mới dừng lại ở chỗ liên kết mang tính thời vụ, chưa mang tính chia sẻ rủi ro và lợi ích, do vậy vẫn chưa đạt được tính bền vững cao. Nhìn chung, các mối liên kết trong sản xuất và tiêu thụ vẫn chưa thật sự vững chắc.
Cũng theo bà Cao Xuân Thu Vân, trong tái cơ cấu nông nghiệp, để chuỗi giá trị nông sản Việt phát triển bền vững và hiệu quả đòi hỏi phải khắc phục những hạn chế cố hữu này. Nhất là cần liên kết chặt chẽ trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ. Đồng thời, cần củng cố và phát triển các tổ chức sản xuất tập thể và các mối liên kết dọc giữa các tác nhân trong chuỗi. Đặc biệt, trước xu hướng tiêu dùng nông sản xanh của thị trường trong và ngoài nước, việc "xanh hóa" nền nông nghiệp không phải gánh nặng mà là cơ hội. Do đó, các chủ thể trong chuỗi phải hướng tới áp dụng các tiêu chuẩn mới và điều chỉnh hoạt động chuỗi cho phù hợp.
Chuyển hướng “trọng cung” sang “trọng cầu”
Khẳng định phát triển bền vững chuỗi giá trị nông sản là yếu tố cốt lõi trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp, để hiện thực hóa mục tiêu tái cơ cấu nông nghiệp, các chuyên gia cho rằng, việc xây dựng thương hiệu và nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản Việt Nam là rất quan trọng, cần có sự hỗ trợ mạnh mẽ từ các chính sách của Nhà nước, đồng thời tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực cho các HTX và doanh nghiệp nông nghiệp, coi phát triển bền vững chuỗi giá trị nông sản không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà còn là chiến lược lâu dài để bảo đảm sự bền vững cho nền nông nghiệp Việt Nam.
Theo ông Nguyễn Quốc Mỹ, cố vấn HTX Nông nghiệp công nghệ cao An Bình (Hiệp Hòa, Bắc Giang), để ngành nông nghiệp của Việt Nam “cất cánh” theo tinh thần Nghị quyết số 19-NQ/TW, với điều kiện thực tế của các HTX mới khởi nghiệp như HTX An Bình cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Về cơ bản nền nông nghiệp Việt Nam vẫn nền nông nghiệp quảng canh, quản trị theo hình thái tiểu nông nên rủi ro cao và hiệu quả thấp. Vì vậy, muốn phát triển hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, cần chọn lựa mô hình HTX để tập hợp đất đai, sức lao động, vốn và nhiều nguồn lực khác, đảm bảo đủ lớn có tính chất đại diện ở cấp huyện trở lên để tập trung hỗ trợ và thúc đẩy liên kết sản xuất. Các HTX cần tận dụng nguồn lực hỗ trợ của Nhà nước để đầu tư máy móc chế biến, đầu tư bao bì, tem nhãn để tăng sức cạnh tranh và đi vào những thị trường khó tính. Ông Nguyễn Quốc Mỹ cũng cho rằng để phát triển được chuỗi giá trị và ứng dụng hiệu quả công nghệ cao, HTX cần chuyển từ vận hành sản xuất theo hướng “trọng cung” sang sản xuất theo hướng “trọng cầu”. Vì cùng một sản phẩm nhưng nhu cầu người tiêu dùng ở mỗi thị trường lại có sự khác nhau về mùi, vị, hình thức...
Đồng quan điểm, ông Nghiêm Xuân Thuyên, Giám đốc HTX Dược liệu Hán Thị (tỉnh Bắc Ninh) bày tỏ mong muốn cơ quan chức năng tạo điều kiện hỗ trợ cho thuê đất lâu dài để ổn định sản xuất. Bên cạnh đó, các sản phẩm từ HTX khi đưa ra thị trường sẽ được hỗ trợ liên kết với các doanh nghiệp và Liên minh HTX, tăng cường xúc tiến thương mại giúp đem những sản phẩm tốt nhất đến tay người tiêu dùng.
Để phát triển chuỗi giá trị nông sản hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế, bà Cao Xuân Thu Vân cho rằng, trong bối cảnh nông nghiệp Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức, từ biến đổi khí hậu đến cạnh tranh trên thị trường quốc tế, việc tìm kiếm các giải pháp để phát triển chuỗi giá trị nông sản một cách hiệu quả đã trở thành nhiệm vụ cấp bách. Việc xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị từ người nông dân, hợp tác xã đến doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu là một trong những giải pháp quan trọng để đạt được mục tiêu này.
Ông Nguyễn Văn Phụng, nguyên Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thuế (Bộ Tài chính): 3 yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tái cơ cấu chuỗi giá trị nông sản Tái cơ cấu nông nghiệp là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển bền vững ngành nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và biến đổi khí hậu. Trong những năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, tình hình tài chính trong ngành nông nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức. Chi phí sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam vẫn cao, trong khi lợi nhuận thu được từ nông nghiệp lại thấp. Điều này gây khó khăn cho nông dân và doanh nghiệp trong việc đầu tư vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông sản. Theo tôi có 3 yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tái cơ cấu chuỗi giá trị nông sản: chi phí sản xuất; tài chính và tín dụng; chính sách thuế và hỗ trợ. Chi phí sản xuất cao cũng làm giảm khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế. Điều này gây khó khăn cho việc xuất khẩu nông sản và ảnh hưởng đến thu nhập của nông dân. Để giảm gánh nặng chi phí cho nông dân và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp bền vững, cần xem xét tăng cường hỗ trợ tài chính và tín dụng, cung cấp thêm các khoản vay ưu đãi, hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu và phát triển, giúp nông dân và doanh nghiệp nông nghiệp có đủ nguồn vốn để đầu tư vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản. Bên cạnh đó, cần cung cấp các ưu đãi thuế cho doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, đầu tư vào hạ tầng và logistics, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và tiêu thụ nông sản. Đồng thời, xây dựng thương hiệu nông sản, mở rộng thị trường xuất khẩu, xây dựng hệ thống tiêu thụ trong nước và khuyến khích tiêu dùng nông sản trong nước. Ông Trần Gia Long, Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn): Ngành nông nghiệp đang tập trung vào phát triển sản xuất xanh, sản xuất tuần hoàn Thực tế cho thấy, nhiều chính sách về hợp tác liên kết hợp tác theo chuỗi giá trị tại Việt Nam đã được ban hành trong thời gian qua. Trong đó, lĩnh vực nông nghiệp có riêng các chiến lược cho từng ngành để thúc đẩy và tạo điều kiện cho từng ngành triển khai các cơ chế chính sách vào thực tiễn. Để thúc đẩy chuỗi giá trị hàng hóa hiệu quả và bền vững, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang triển khai đề án phát triển vùng nguyên liệu tại 13 tỉnh với các sản phẩm chủ lực như lúa gạo, cây ăn quả, gỗ rừng trồng... Qua quá trình triển khai, đến nay, diện tích vùng nguyên liệu thực hiện liên kết theo chuỗi giá trị với sự tham gia của HTX, doanh nghiệp đã lên 104.000ha. Từ thực tiễn này, để thúc đẩy phát triển chuỗi giá trị nông sản, ngành nông nghiệp đang tập trung vào các lĩnh vực như phát triển sản xuất xanh, sản xuất tuần hoàn gắn với ứng dụng chuyển đổi số. Muốn vậy, vai trò của HTX là điều không thể bỏ qua, trong đó Liên minh HTX đang đóng vai trò dẫn dắt và hỗ trợ các HTX phát triển theo chuỗi cũng như tiếp cận và ứng dụng các chính sách một cách phù hợp, thuận lợi. Chính vì vậy, Liên minh HTX Việt Nam cần tiếp tục cùng các bộ, ngành đẩy mạnh hỗ trợ HTX chuyển từ sản xuất thông thường sang sản xuất xanh, bền vững; thực hiện sản xuất theo hướng phục vụ từ đồng ruộng đến bàn ăn để nâng cao giá trị cạnh tranh cho nông sản và nâng cao hiệu quả kinh tế cho nông dân. Đây cũng sẽ là nền tảng để thúc đẩy tái cơ cấu nông nghiệp, góp phần vào phát triển “tam nông”. GS.TS Trần Đức Viên, Chủ tịch Hội đồng khoa học và đào tạo, Học viện Nông nghiệp Việt Nam: Ứng dụng khoa học công nghệ nâng cao giá trị gia tăng cho nông sản Ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN) hiện đại vào sản xuất nông nghiệp đang là xu hướng chủ đạo, là chìa khóa thành công của các nước có nền nông nghiệp phát triển trên thế giới. Thực tiễn đã chứng minh việc đẩy nhanh nghiên cứu, ứng dụng KHCN vào sản xuất đã đóng góp rất lớn đến sự phát triển của ngành nông nghiệp Việt Nam. Theo đánh giá, KHCN và đổi mới sáng tạo đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp; trong lĩnh vực sản xuất giống cây trồng, vật nuôi đạt 38%. KHCN đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa nông sản trên thị trường trong nước và quốc tế. Đến nay, cả nước có 49 doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tuy nhiên, dù một số doanh nghiệp đã áp dụng được công nghệ của nền nông nghiệp thông minh, nhưng hầu hết các công nghệ này là nhập khẩu, ít có sản phẩm công nghệ được sản xuất tại Việt Nam. Đặc biệt, nông nghiệp Việt Nam vẫn là nền sản xuất nhỏ và manh mún, chuỗi giá trị nông sản chưa được phát triển bền vững, trình độ ứng dụng công nghệ còn thấp. Điều này làm cho năng suất lao động thấp, sản lượng nông nghiệp bình quân trên mỗi lao động ở Việt Nam chỉ bằng 1/3 của Indonesia và chưa bằng 1/2 so với Thái Lan và Philippines (Ngân hàng thế giới, 2017). Do đó, tôi cho rằng, cần tiếp tục xem việc đẩy nhanh nghiên cứu, ứng dụng KHCN vào trồng trọt và sản xuất nông nghiệp, để từ đó xây dựng và "đánh dấu" thương hiệu nông nghiệp Việt Nam trên thị trường thế giới. Ông Hoàng Trọng Thuỷ, Chuyên gia nông nghiệp: Doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu là trung tâm của chuỗi Ngành nông nghiệp Việt Nam cần có các giải pháp về tổ chức sản xuất như: hoàn thiện và công bố quy hoạch các vùng nuôi trồng hàng nông sản xuất khẩu theo từng nhóm hàng đặc trưng trên từng địa bàn; khuyến khích các hộ nuôi trồng sản phẩm nông sản đăng ký chứng nhận sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP… Bên cạnh đó, khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở chế biến hàng nông sản xuất khẩu đầu tư công nghệ mới vào dây chuyền sản xuất chế biến đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm đáp ứng yêu cầu của nhà nhập khẩu. Nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã, xây dựng các thương hiệu mạnh, có uy tín trên thị trường xuất khẩu. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, tăng cường hệ thống thông tin về thị trường, khoa học công nghệ, tiến bộ kỹ thuật mới cho các hộ nuôi trồng, chế biến và các doanh nghiệp XK thông qua hoạt động của các hội, hiệp hội, các phương tiện thông tin đại chúng… Đặc biệt, các hiệp hội ngành hàng nông sản nên tổ chức giới thiệu sản phẩm của ngành mình cho người tiêu dùng tại các nước mà hàng Việt Nam xuất khẩu tới, nhằm tạo dựng niềm tin của người tiêu dùng đối với các sản phẩm nông sản mang thương hiệu Việt Nam. Có thương hiệu, hàng nông sản của Việt Nam mới có thể tham gia bền vững vào chuỗi giá trị toàn cầu. Đối với doanh nghiệp, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu với vai trò là người điều hành chuỗi cần chủ động tiếp cận và ký kết các bản ghi nhớ về liên kết; sau đó tiến tới ký kết hợp đồng chính thức với các hộ sản xuất trong vùng nguyên liệu đã quy hoạch, theo hướng hợp đồng đảm bảo tiêu thụ sản phẩm nhằm tạo lập niềm tin cho các hộ nông dân nuôi trồng, khuyến khích họ có trách nhiệm với việc nuôi trồng sản phẩm nông sản xuất khẩu. Đồng thời, với vai trò là trung tâm chuỗi, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cũng cần có sự kết nối chặt chẽ với hệ thống thông tin của các thành viên khác trong chuỗi. Sự chia sẻ và kết nối hiệu quả sẽ góp phần cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời cho tất cả các thành viên trong chuỗi, giúp cân đối tốt hơn công tác thu mua, dự trữ và vận chuyển; hướng tới giảm thiểu những dao động về cung cầu trên thị trường; từng bước đáp ứng yêu cầu truy nguyên nguồn gốc xuất xứ sản phẩm nông sản xuất khẩu. Tuấn phong (ghi) |
Tin liên quan
Năm 2025: Mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa khoảng 12%
06:55 | 26/12/2024 Kinh tế
Thị trường Halal: Cửa đã rộng mở, làm sao để khai thác
06:57 | 26/12/2024 Kinh tế
Áp dụng biện pháp chống bán phá giá với một số sản phẩm tháp điện gió xuất xứ Trung Quốc
16:24 | 26/12/2024 Kinh tế
TPHCM đặt mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững trong năm 2025
16:20 | 26/12/2024 Kinh tế
Định vị Việt Nam khi dịch chuyển "dòng chảy" của chuỗi cung ứng toàn cầu
10:47 | 26/12/2024 Kinh tế
Linh hoạt, chủ động khi tỷ giá còn nhiều biến động trong năm 2025
07:59 | 25/12/2024 Kinh tế
Năm 2025, mục tiêu sản xuất công nghiệp tăng khoảng 9-10%
17:09 | 24/12/2024 Kinh tế
(INFOGRAPHICS) Hơn 747 tỷ USD: Kỷ lục mới của xuất nhập khẩu
14:46 | 24/12/2024 Infographics
Thủy sản vượt khó về đích xuất khẩu 10 tỷ USD
14:45 | 24/12/2024 Xuất nhập khẩu
6 nhóm hàng xuất khẩu tăng trưởng tỷ đô
10:32 | 24/12/2024 Xuất nhập khẩu
Thương mại điện tử dự báo vượt mốc 25 tỷ USD
10:24 | 24/12/2024 Kinh tế
Tuân thủ quy định của từng thị trường để xuất khẩu rau quả thuận lợi
10:20 | 24/12/2024 Kinh tế
Nhóm hàng nhập khẩu đầu tiên cán mốc 100 tỷ USD
10:14 | 24/12/2024 Xuất nhập khẩu
Cửa khẩu thông minh: Nền tảng kết nối thương mại hiện đại
09:10 | 24/12/2024 Kinh tế
Cửa khẩu thông minh - “chìa khóa” để Lạng Sơn cất cánh
08:50 | 24/12/2024 Kinh tế
Vấn đề Bạn quan tâm
Tin mới
Tổng cục Hải quan và Hải quan Tây Ninh hưởng ứng chương trình “xóa nhà tạm, nhà dột nát”
Tiếp tục cải cách, hiện đại hoá công tác tài chính doanh nghiệp
Hồi phục "sức khoẻ" doanh nghiệp nhà nước sau 6 năm về "siêu Ủy ban"
Hải quan Đồng Nai đề xuất được thí điểm sắp xếp lại bộ máy theo mô hình mới
Những thông tin hấp dẫn trên Tạp chí Hải quan số 104 phát hành ngày 27/12/2024
(Infographics) Tổng thu từ xuất nhập khẩu các tỉnh, thành vùng Tây Nguyên
10:50 | 15/12/2024 Hải quan
(INFOGRAPHICS) Kim ngạch hơn 67 tỷ USD, Hàn Quốc là đối tác thương mại lớn thứ 3 của Việt Nam
11:29 | 04/12/2024 Infographics
(INFOGRAPHICS): Tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp tham gia chương trình tự nguyện tuân thủ
16:30 | 06/12/2024 Infographics
(INFOGRAPHICS) Tổng thu từ XNK các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ
16:33 | 06/12/2024 Xuất nhập khẩu
(INFOGRAPHICS) 66 tỷ USD kim ngạch xuất nhập khẩu tháng 11
14:29 | 12/12/2024 Infographics