Ngành năng lượng đối mặt với phá huỷ môi trường
(HQ Online) - Trong tương lai gần, yêu cầu phát triển kinh tế đòi hỏi ngành năng lượng phải đi trước một bước. Dự báo vào năm 2020 ngành năng lượng Việt Nam sẽ đạt mức tăng trưởng ít nhất gấp 5 lần so với hiện nay, do đó nếu không có những giải pháp hữu hiệu bảo vệ môi trường thì sẽ gây nên những hệ quả tiêu cực đối với cộng đồng và môi trường sống.
Theo đánh giá của Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE): Trong khai thác năng lượng, để sớm tăng nguồn vốn các doanh nghiệp đã đưa cường độ khai thác tăng cao trong hoàn cảnh công nghệ lạc hậu. Chẳng hạn như khai thác than hơn 100 năm qua tại Quảng Ninh đã làm biến đổi địa hình, địa mạo của các khu vực, làm suy giảm diện tích rừng.
Khai thác than theo kiểu hầm lò đã tạo nên nhiều hầm sâu trong lòng đất tới 134-140m như ở mỏ Cọc Sáu, Đèo Nai... Ước tính trên địa bàn Quảng Ninh mỗi năm thải ra 40-50 triệu m³ nước thải từ moong. Trong quá trình khai thác, nổ mìn, đào bốc đất đá làm bay vào không khí một lượng lớn bụi silic, đá vôi, kim loại nặng... Thậm chí ở một vài nguồn than còn có chứa cả phóng xạ, gây ô nhiễm lớn cho môi trường không khí trong khu vực.
Còn trong lĩnh vực hoạt động dầu khí làm thất thoát một lượng lớn dịch khoan, mùn khoan trong quá trình thăm dò; đồng thời có thể xảy ra nhiều rủi ro có tác động lớn đến môi trường như cháy nổ, tràn dầu... Đặc biệt, khu vực dầu khí ở nước ta nằm trong vùng có tiềm năng thủy sản cao, độ nhạy cảm sinh thái lớn, nên hệ quả môi trường ở khu vực này có nhiều khả năng bị phân tán ra trên quy mô rộng hơn, do sự tích tụ kim loại nặng trong chu trình thức ăn sinh vật.
Về khai thác thủy điện ngoài việc làm ngập một diện tích đất nông nghiệp đáng kể vốn đã ít ỏi của các tỉnh miền núi, còn làm mất nơi cư trú của các loài động vật đặc hữu, làm mất đi tính liên tục của hệ sinh thái các dòng sông, tạo ra nhiều vùng ngập úng lớn. Việc tích chứa một khối lượng lớn nước khổng lồ cũng là nguyên nhân gây ra các trận động đất kích thích và có thể xảy ra trược lở đất do nền đất bị ngập nước giảm độ bền cơ học.
Song tác động lớn nhất do việc xây dựng các công trình thủy điện đó là việc di dân tái định cư, gây nên sự chia xẻ của cộng đồng và các nền văn hóa, gia tăng bệnh tật và mất đi phương tiện sản xuất truyền thống của cộng đồng dân cư ở khu vực này. Riêng trong công trình Thủy điện Hòa Bình phải di chuyển trên 5,2 vạn người, cho đến nay một số điểm tái định cư vẫn chưa ổn định.
PGS.TS Đinh Văn Sâm, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam cho rằng: Để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước bền vững, ngành năng lượng cần phải có một chiến lược phát triển mới, một chiến lược được phát triển trên quan điểm “vừa cung cấp đầy đủ năng lượng cho xã hội, vừa không gây ra các hậu quả nặng nề về kinh tế và môi trường”.
Chiến lược phát triển năng lượng bền vững phải đạt được sự nhất trí giữa yêu cầu của kinh tế, năng lượng, môi trường và xã hội văn hóa, đòi hỏi phải có sự tham gia của Chính phủ và cả của cộng đồng. Vấn đề giải pháp không thể chỉ dựa vào công nghệ mà còn cần tìm kiếm thêm giải pháp về chính sách, pháp luật, công cụ quản lý, công cụ kinh tế...
Vì vậy, chiến lược phát triển năng lượng bền vững phải đáp ứng được mục tiêu chuyển từ quan hệ “bóc lột môi trường” thành quan hệ thân thiện với môi trường. Chuyển thói quen tiêu thụ, lãng phí thành thói quen tiết kiệm năng lượng; sử dụng các công nghệ mới, công nghệ sạch, thiết kế các sản phẩm tiêu dùng tiết kiệm năng lượng hạn chế ô nhiễm. Cũng từ đó, đòi hỏi chiến lược này cần phát triển đa dạng hóa nguồn năng lượng, đa dạng hóa phương thức sản xuất và sử dụng năng lượng trong cộng đồng./.
Văn Hào