Nhiều hợp tác xã ngưng hoạt động, thuộc diện giải thể đã được xoá nợ thuế
(HQ Online) - Bộ Tài chính cho biết, thời điểm từ ngày 1/7/2020 đến nay, nhiều hợp tác xã đã ngưng hoạt động, thuộc diện giải thể, không còn khả năng trả nợ thuế thuộc đối tượng được xóa nợ tiền thuế.
Đến nay đã có nhiều hợp tác xã được xoá nợ thuế. Ảnh: Thuỳ Linh. |
Mới đây, Bộ Tài chính đã nhận được kiến nghị của cử tri tỉnh Bến Tre do Ban Dân nguyện chuyển tới. Theo đó, cử tri cho biết, tại Khoản 3 Điều 6 Nghị quyết số 94/2019/QH14 của Quốc hội về khoanh nợ tiền thuế, xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước quy định: “Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với cá nhân, cá nhân kinh doanh, hộ gia đình, hộ kinh doanh”.
Cử tri kiến nghị xem xét, trình bổ sung hợp tác xã vào đối tượng thuộc thẩm quyền xử lý nợ của chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh để xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với hợp tác xã.
Đồng thời cử tri tỉnh Bến Tre cũng kiến nghị có giải pháp xóa nợ đối với những hợp tác xã đã ngưng hoạt động, thuộc diện giải thể nhưng không còn tài sản để thanh lý, không còn khả năng để trả nợ thuế, để những hợp tác xã này được giải thể, tạo điều kiện thuận lợi cho địa phương trong công tác quản lý nhà nước, cũng như xây dựng và phát triển các loại hình kinh tế tập thể, hợp tác xã.
Phản hồi về vấn đề này, Bộ Tài chính cho biết, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Hợp tác xã số 23/2012/QH13 của Quốc hội; căn cứ quy định tại Điều 6 Nghị quyết số 94/2019/QH14 của Quốc hội về khoanh nợ tiền thuế, xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước, hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân. Do đó, thẩm quyền xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp của hợp tác xã được quy định tại khoản 2 Điều 6 Nghị quyết số 94/2019/QH14 và chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp dưới 5 tỷ đồng.
Đồng thời, căn cứ quy định tại Điều 65 Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 (được bổ sung tại khoản 20 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH11 của Quốc hội) về các trường hợp được xóa nợ tiền thuế, tiền phạt; căn cứ quy định tại Điều 85 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019 của Quốc hội (hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2020) về các trường hợp được xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt; thời điểm trước ngày 1/7/2020, các khoản nợ tiền thuế, tiền phạt, tiền chậm nộp của hợp tác xã đã ngưng hoạt động, thuộc diện giải thể nhưng không còn tài sản để thanh lý, không còn khả năng trả nợ thuế và cơ quan quản lý thuế đã áp dụng tất cả các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, đồng thời các khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt này đã quá mười năm kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế nhưng không có khả năng thu hồi thì thuộc đối tượng được xóa nợ tiền thuế, tiền phạt.
Như vậy, thời điểm từ ngày 1/7/2020 đến nay, trường hợp hợp tác xã đã ngưng hoạt động, thuộc diện giải thể nhưng không còn tài sản để thanh lý, không còn khả năng trả nợ thuế và cơ quan quản lý thuế đã áp dụng biện pháp cưỡng chế quy định tại điểm g khoản 1 Điều 125 của Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14, đồng thời các khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt này đã quá 10 năm kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế nhưng không có khả năng thu hồi thì thuộc đối tượng được xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt.