Thị trường kém thuận lợi, quỹ đầu tư "hái ra tiền" nhờ nhóm cổ phiếu nào?
(HQ Online) - Diễn biến kém thuận lợi của vĩ mô và tình hình thế giới đã tạo phân hóa rõ nét giữa các nhóm ngành và cả trong nội tại từng ngành. Đâu là ngành đang được các quỹ đầu tư lựa chọn và mang lại hiệu suất cao trong bối cảnh thị trường đầy rẫy rủi ro là mối quan tâm của nhiều nhà đầu tư hiện nay.
Trước những thách thức, thị trường vẫn có nhiều điểm sáng. Ảnh: T.L |
Với mức giảm 20% trong nửa đầu năm 2022, VN-Index trở thành một trong những chỉ số chứng khoán có hiệu suất thấp nhất thế giới. Khép lại 6 tháng, vốn hóa toàn thị trường tương ứng giảm hơn 1,22 triệu tỷ đồng, trong đó riêng sàn HoSE đã mất 1,08 triệu tỷ đồng. Thanh khoản thị trường cũng sụt giảm đáng kể với giá trị giao dịch bình quân mỗi phiên trên sàn HoSE ghi nhận trong tháng 6/2022 chỉ đạt 13.182 tỷ đồng, mức thấp nhất trong 1 năm trở lại đây và giảm 57% so với đỉnh ghi nhận tháng 11/2021 với gần 31.000 tỷ đồng/phiên.
Những con số kể trên đã cho thấy diễn biến không mấy thuận lợi đối với nhiều nhà đầu tư. Tuy nhiên, dưới góc nhìn của các chuyên gia, thị trường vẫn có những điểm sáng. Điển hình như tại Quỹ đầu tư cổ phiếu tiếp cận thị trường Việt Nam của VinaCapital (VESAF), hiệu suất đạt được trong năm 2021 lên tới 67%, vượt trội hơn hẳn so với mức tăng 35% của thị trường. Trong nửa đầu năm 2022, trong khi VN-Index giảm 20%, VESAF chỉ giảm 6,9%, khả quan hơn nhiều so với mức âm 2 con số của nhiều quỹ đầu tư khác.
Để có được kết quả này, bà Nguyễn Hoài Phương, Giám đốc đầu tư, Điều hành quỹ VESAF tiết lộ, trong 2 năm qua, danh mục đầu tư của VESAF đã phân bổ rất nhiều vào các cổ phiếu thuộc nhóm FDI và xuất khẩu và trong 6 tháng đầu năm nay quỹ tăng tỷ trọng ở số nhóm cổ phiếu có triển vọng tốt hơn. Ví dụ, trong 6 tháng đầu năm VESAF đã tăng tỷ trong VHC, DGC, BWE, DPR. Đến cuối tháng 6, nhóm này chiếm khoảng 30% tỷ trọng đầu tư của VESAF.
Nói thêm về triển vọng của nhóm ngành này trong thời gian tới, bà Phương cho biết, động lực tăng trưởng của kinh tế Việt Nam gồm có tiêu dùng trong nước và xuất xuất. Tiêu dùng nội địa vẫn là động lực chính, hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài trong nhiều năm qua. Tuy nhiên, trong những năm gần đây nhóm xuất khẩu có những yếu tố hỗ trợ mạnh mẽ hơn, tạo ra tăng trưởng tốt hơn trong trung hạn, đặc biệt là sau các sự kiện chiến tranh thương mại Trung – Mỹ, Covid-19, xung đột Nga – Ukraine.
Tất cả tạo ra sự xáo trộn trên thế giới, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch sản xuất sang các nước có triển vọng và điều kiện kinh doanh ổn định. Theo đó, ngoài những doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp, nhóm này còn bao gồm những doanh nghiệp hưởng lợi như cảng biển, dịch vụ kho bãi, khu công nghiệp, tiện ích liên quan.
Trong khi đó, mặc dù doanh nghiệp FDI chủ yếu tạo ra phần lớn giá trị xuất khẩu nhưng việc thu hút FDI lại tạo ra tăng trưởng cho các doanh nghiệp liên quan. Trong những năm tới, Việt Nam vẫn là điểm sáng thu hút FDI vì nhu cầu dịch chuyển, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, ổn định chứ không chỉ nhắm đến chi phí thấp như trước. Như khu công nghiệp, những công ty có quỹ đất lớn, vị trí tốt và dư địa khai thác quỹ đất khi hành lang pháp lý về sử dụng đất ngày càng hoàn thiện sẽ hấp dẫn. Các công ty có quỹ đất ở khu vực xa hơn như Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước đang được hưởng lợi, sau khi các khu vực chính như Bình Dương, Đồng Nai đã hạn chế.
Nhóm cảng biển – kho bãi cũng tăng trưởng ổn định. Ngành này hấp dẫn vì việc mở rộng rất khó khăn, không phải công ty nào cũng tham gia mở rộng được. Những doanh nghiệp này được hưởng lợi từ rất nhiều ngành xuất khẩu nên mức độ biến động sẽ giảm thiểu.
Đối với ngành ngân hàng, theo quan điểm của bà Phương, sau thời gian ngân hàng tăng trưởng tốt về lợi nhuận, sự phân hóa sẽ rõ ràng hơn vì cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn. Như cho vay bán lẻ hoặc hợp đồng bảo hiểm, những năm trước ngân hàng nào cũng đạt tỷ trọng cao. Nhưng để tăng trưởng tiếp những năm sau thì cần có chiến lược khác. Trong năm 2022, tình hình vĩ mô khó khăn hơn so với năm trước, lạm phát, lãi suất tăng ảnh hưởng đến chi phí vốn, trong khi lãi suất đầu ra hạn chế do phải tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp. Việc siết chặt trái phiếu cũng ảnh hưởng đến cho vay bất động sản khi tỷ trọng chiếm 20-25%.
Mặc dù vậy, điểm tích cực là các cổ phiếu nhóm ngân hàng đã giảm mạnh dẫn tới định giá đang hấp dẫn so với quá khứ và so với nội tại của ngân hàng. “Nếu muốn đầu tư thì việc cần làm là lựa chọn ngân hàng tăng trưởng tốt hơn, quản lý rủi ro tốt hơn. Đồng thời phải quan sát tín hiệu liên quan đến tín dụng để quyết định vùng giải ngân ở đâu” – bà Phương khuyến nghị.
Trong khi đó, bán lẻ là một trong số ít ngành tăng trưởng mạnh thời gian qua do hưởng lợi từ nhu cầu tiêu dùng sau thời gian bị nén. Nhưng các chuyên gia cũng chỉ ra một số rủi ro như sự phục hồi của sức mua sẽ kéo dài trong bao lâu, rủi ro lạm phát đối với lĩnh vực này ra sao, giá cổ phiếu đã phản ánh đúng giá trị doanh nghiệp hay chưa…
Trên thực tế mức định giá của các doanh nghiệp bán lẻ đều đang ở mức cao, ngay cả trong giai đoạn thị trường suy giảm. Điều này cho thấy nhà đầu tư đang phải trả một cái giá chưa hợp lý. Ngoài ra, khi nhìn sâu vào các doanh nghiệp, người điều hành quỹ VESAF nhận thấy có một số doanh nghiệp đã sụt giảm ROE (lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu), điều này khiến doanh nghiệp phải phải triển những ngành hàng mới và chính những ngành hàng mới này sẽ tạo sức ép cho doanh nghiệp trong ngắn hạn.