Một số điểm mới trong công tác giám sát tuân thủ trên thị trường chứng khoán
(HQ Online) - Thực hiện chương trình xây dựng văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán số 54/2019/QH14 ngày 26/11/2019, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký ban hành Thông tư số 06/2022/TT-BTC hướng dẫn công tác giám sát tuân thủ của Ủy ban Chứng khoán nhà nước (UBCKNN) đối với hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán của Sở GDCK Việt Nam và các công ty con, Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam.
Trong năm 2021, số lượng nhà đầu tư mới trên thị trường chứng khoán tăng hơn 50%. Ảnh: ST |
Thông tư này bãi bỏ toàn bộ các văn bản gồm: Thông tư số 116/2017/TT-BTC hướng dẫn công tác giám sát tuân thủ của UBCKNN đối với hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán của Sở GDCK, Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam (TTLKCK); Thông tư số 35/2019/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 115/2017-BTC ngày 25/10/2017 hướng dẫn giám sát giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán và Thông tư số 116/2017/TT-BTC.
Về cơ sở ban hành Thông tư 06/TT-BTC, UBCKNN cho biết, Thông tư 116 được Bộ Tài chính ban hành ngày 25/10/2017 đã tạo khuôn khổ pháp lý cho UBCKNN triển khai công tác giám sát tuân thủ đối với hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán của Sở GDCK và TTLKCK trên cơ sở Luật Chứng khoán 2006, Luật sửa đổi, bổ sung năm 2010 và các văn bản hướng dẫn.
Luật Chứng khoán 2019 đã sửa đổi tổ chức bộ máy, hoạt động của Sở GDCK (chuyển thành Sở GDCK Việt Nam và công ty con), TTLKCK (chuyển thành Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam) làm thay đổi đối tượng giám sát tuân thủ.
Luật Chứng khoán 2019 cũng thay đổi về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của UBCKNN trong quản lý giám sát đối với Sở GDCK, TTLKCK; thay đổi các quy định về tổ chức thị trường, vận hành thị trường, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán, sửa đổi quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Sở GDCK, TTLKCK, của các thành viên của Sở GDCK, TTLKCK dẫn tới thay đổi nội dung công tác giám sát tuân thủ của UBCKNN đối với Sở GDCK, TTLKCK.
Cùng với đó, các văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán 2019 mới được ban hành cũng quy định trách nhiệm giám sát của Sở GDCK Việt Nam và các công ty con, TCTLKCK đối với thành viên giao dịch, thành viên lưu ký và các tổ chức, cá nhân khác trong việc tuân thủ quy định pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Từ cơ sở pháp lý và thực tiễn nêu trên, cần thiết phải xây dựng, ban hành thông tư thay thế Thông tư số 116/2017/TT-BTC để đảm bảo phù hợp với hệ thống pháp luật chứng khoán mới, đáp ứng yêu cầu thay đổi thực tế về đối tượng giám sát, về nội dung giám sát tuân thủ.
Về nội dung, Thông tư 06/TT-BTC hướng dẫn công tác giám sát của UBCKNN đối với việc tuân thủ các quy định pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán của Sở GDCK Việt Nam và các công ty con gồm Sở GDCK TPHCM, Sở GDCK Hà Nội; TCTLKCK trong việc tổ chức, thực hiện nghiệp vụ chứng khoán.
Với 5 chương, 4 phụ lục, Thông tư này quy định một số nội dung mới liên quan đến công tác giám sát tuân thủ. Theo đó, Thông tư đã bổ sung đối tượng áp dụng là Sở GDCK Việt Nam, thay đổi tên gọi TTLKCK là Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán theo Luật Chứng khoán 2019.
Thông tư cũng tách riêng nghĩa vụ của Sở GDCK Việt Nam, Sở GDCK TPHCM, Sở GDCK Hà Nội và TCTLKCK; quy định nội dung giám sát tuân thủ đối với Sở GDCK Việt Nam và các công ty con, TCTLKCK; cập nhật một số thuật ngữ trong hoạt động nghiệp vụ của TCTLKCK để đảm bảo bao quát hết các nghiệp vụ theo quy định tại Luật Chứng khoán và đảm bảo phù hợp khi thực hiện mô hình bù trừ, thanh toán theo cơ chế đối tác bù trừ trung tâm (CCP).
Thông tư cũng bổ sung nội dung cấp, quản lý mã số giao dịch chứng khoán của tổ chức phát hành chứng chỉ lưu ký tại nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài để phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 146 Nghị định 155/2020/NĐ-CP; bổ sung nội dung về việc giám sát tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại công ty đại chúng, quỹ đại chúng; việc thực hiện giám sát an ninh, an toàn đối với hệ thống đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán; bổ sung qui định về xác định thời gian chốt số liệu là đến ngày làm việc cuối cùng của tháng đối với báo cáo tháng và đến ngày 31/12 năm báo cáo đối với báo cáo năm để phù hợp với quy định về chế độ báo cáo của cơ quan hành chính nhà nước theo Điều 12 Nghị định số 09/2019/NĐ-CP.