Kiểm định chất lượng đại học ra sao?
(HQ Online) - Để chấn chỉnh đào tạo tràn lan, chất lượng kém công tác kiểm định chất lượng đại học cần được tiến hành mạnh mẽ, thường xuyên. Tuy nhiên, hoạt động kiểm định này đã được thực hiện ra sao khi chất lượng sinh viên ra trường vẫn luôn phải đào tạo lại để đáp ứng yêu cầu công việc.
Nhiều trường đại học tuyển sinh thêm ngành học mới trong năm 2021 | |
Tự chủ đại học - cần thực chất | |
Tuyên dương 88 thủ khoa xuất sắc các trường đại học, học viện |
Công tác kiểm định đại học cần được tăng cường nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đại học. Ảnh: ST |
Hình thức?
Kiểm định chất lượng (KĐCL) đào tạo đại học là quá trình một tổ chức chính phủ hoặc tư nhân đánh giá chất lượng của toàn bộ cơ sở giáo dục đại học hoặc của một chương trình giáo dục cụ thể nhằm chính thức công nhận cơ sở hoặc chương trình đã đáp ứng những tiêu chuẩn hoặc tiêu chí tối thiểu nào đó do tổ chức đánh giá đặt ra.
Về công tác KĐCL tại các trường ĐH hiện nay, nhiều chuyên gia cho rằng, việc kiểm định vẫn chưa vượt qua được việc đong, đo, đếm theo danh mục. Và thực tế cho thấy, kết quả sau kiểm định, hầu hết là đạt, số các trường "không đạt" rất... hiếm hoi. Qua tìm hiểu, phóng viên được biết, thực tế hiện nay có chuyện các trường rỉ tai nhau chọn trung tâm kiểm định nào “dễ” để được công nhận kết quả kiểm định cao. Bên cạnh đó, một số cơ sở chấp nhận tốn kém chọn trung tâm kiểm định ở khu vực xa về kiểm định cho trường.
Một kiểm định viên từng tham gia kiểm định cho phóng viên hay, để đối phó với đoàn kiểm định, có trường đã mượn máy móc thiết bị, cơ sở vật chất của trường khác về để "làm đẹp hồ sơ" trong đợt kiểm định; số liệu thì có nhiều phần số ảo.
Bà Nguyễn Phương Nga, Giám đốc Trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục, Hiệp hội các trường ĐH-CĐ Việt Nam cho hay, tiêu chí kiểm định thì nhiều nhưng lại rất dễ đạt, việc kiểm định chất lượng vẫn mang tính hình thức. “Hiện nay số trường ĐH, CĐ đã được kiểm định khoảng 50% và số trường đạt chuẩn lên đến hơn 96%. Ngoài ra, chính sách khen thưởng, xử phạt sau đánh giá vẫn chưa đủ mạnh. Hiện nay, chưa có trường nào bị đóng cửa, khiến tác động của KĐCL bị hạn chế", bà Nga nêu.
Ở một góc nhìn khác, theo Giám đốc đảm bảo chất lượng một Tập đoàn giáo dục lớn, mặc dù trên danh nghĩa hệ thống kiểm định của Việt Nam được cho là theo mô hình kiểm định của nước ngoài nhưng thực sự hệ thống kiểm định hiện nay gần như do Bộ GD&ĐT kiểm soát tuyệt đối.
"Từ các tiêu chuẩn kiểm định, phương pháp thực hiện, thẩm quyền thành lập trung tâm kiểm định, nội dung đào tạo, thẩm quyền cấp thẻ kiểm định viên… đều nằm trong tay Bộ GD&ĐT. Sự thiếu độc lập của hệ thống kiểm định đã ảnh hưởng nhất định đến tiến độ và hiệu quả của việc triển khai kiểm định trong hệ thống giáo dục đại học", vị Giám đốc này nhấn mạnh.
Ngoài bệnh hình thức, dễ dãi trong KĐCL của một số cơ sở hiện nay, một trong những yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo chất lượng đào tạo đại học đó là số lượng và chất lượng đội ngũ giảng viên song điều này lại đang bị một số cơ sở xem nhẹ. “Khi mở ngành, các trường kê khai khá đầy đủ nhưng theo thời gian số lượng giảng viên cứ “teo tóp” dần”.
Tại Thông tư 22/2017/TT-BGD&ĐT do Bộ GD&ĐT ban hành quy định điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành đào tạo và đình chỉ tuyển sinh, thu hồi quyết định mở ngành đào tạo trình độ đại học, khi mở ngành các trường ĐH phải đảm bảo số giảng viên cơ hữu tối thiểu song thực tế cho thấy việc này có nơi không được thực hiện nghiêm, cá biệt có ngành chỉ có duy nhất một giảng viên cơ hữu.
Đáng chú ý là Điều 7 của Thông tư 22 nêu rõ cơ sở đào tạo bị đình chỉ tuyển sinh ngành đào tạo không bảo đảm một trong các điều kiện quy định tại điều 2 của thông tư này, trong đó có điều kiện về giảng viên như đã nêu ở trên. Đối chiếu với quy định này, nhiều ngành ở các trường đáng ra phải bị đình chỉ tuyển sinh vì không đảm bảo điều kiện giảng viên tối thiểu. Thế nhưng trong những năm qua, ít có ngành nào bị thu hồi quyết định mở ngành, đình chỉ tuyển sinh.
Ngoài ra, trong quá trình đào tạo ĐH, Bộ GD&ĐT quy định hàng năm, các cơ sở giáo dục phải báo cáo Bộ số lượng thí sinh trúng tuyển và đã nhập học so với chỉ tiêu của năm đã được thông báo; số lượng người học đã tốt nghiệp so với số lượng thí sinh trúng tuyển và đã nhập học; nhưng công tác hậu kiểm “có cũng như không” nên khó có thể phát hiện ra sai phạm và vụ việc tại trường ĐH Đông Đô vừa qua là điển hình.
Bộ GD&ĐT cũng quy định các trường phải công bố công khai thông tin quá trình thực hiện chỉ tiêu tuyển sinh, in, quản lý văn bằng, chứng chỉ, thông tin về cấp văn bằng, chứng chỉ trên trang thông tin điện tử của đơn vị nhưng nhiều trường ĐH không thực hiện nghiêm túc việc này.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu phóng viên được biết những người quan tâm không thể tìm thấy thông tin này trên website của đơn vị hoặc nếu có thông tin cũng rất sơ sài, không đầy đủ, chưa nói đến tính chuẩn xác đến đâu.
Nâng chất lượng
Theo các chuyên gia, khi không có ràng buộc về việc kiểm định chương trình, trong bối cảnh các trường hướng đến tự chủ thì không chỉ xảy ra việc đào tạo kém chất lượng mà còn nảy sinh những sai phạm trong mở ngành, đào tạo, trong cam kết với người học. Do vậy, vấn đề cấp bách đặt ra là cần đẩy nhanh tốc độ kiểm định các chương trình đào tạo. Đồng thời cần tăng cường tính minh bạch và công khai thông tin ở các trường.
Để thúc đẩy việc này, Bộ GD&ĐT với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước cần có những chính sách khen thưởng, xử phạt nghiêm minh trong quá trình giám sát chất lượng ở các trường. Đây là điều quan trọng hơn việc "dán nhãn" đạt chuẩn trong công tác kiểm định, đánh giá chất lượng giáo dục gây mất niềm tin trong xã hội.
Theo ông Trần Xuân Nhĩ, Phó Chủ tịch Hiệp hội các trường ĐH, CĐ Việt Nam, cần đẩy mạnh khâu hậu kiểm, công khai xử lý nghiêm vi phạm nếu có bởi nếu chỉ trông chờ vào đầu ra của nhà trường sẽ được xã hội, doanh nghiệp, các nhà tuyển dụng đánh giá thì không khách quan.
“Nhiều năm qua báo cáo từ phía nhà trường về tỷ lệ sinh viên có việc làm sau tốt nghiệp, hầu như trường nào thấp cũng trên 80%, rất khó nói chính xác hay không”, ông Trần Xuân Nhĩ nêu quan điểm.
Còn ông Hoàng Ngọc Vinh, thành viên Tổ tư vấn Ủy ban Đổi mới giáo dục cho rằng, nguồn nhân lực đang là một thách thức lớn khi không đủ để hậu kiểm chất lượng đào tạo tất cả các trường. Theo đó, mỗi năm cơ quan này chỉ kiểm tra được khoảng 20/400 cơ sở đào tạo. “Với tỉ lệ 5% các trường được hậu kiểm mỗi năm nêu trên chỉ là muối bỏ biển, khó đảm bảo cam kết về chất lượng của các trường khi thiếu người kiểm tra, đánh giá cũng là điều có thể lý giải được”, ông Vinh cho hay.