Tránh “con sâu làm rầu nồi canh”
(HQ Online) - Thời điểm đầu năm 2016, nợ công suýt chạm trần cho phép (63,7% GDP) và tốc độ tăng nợ công giai đoạn 2011 - 2015 lên tới 18% (gấp ba lần mức tăng trưởng kinh tế 5,91%). Vậy mà bằng các giải pháp quyết liệt, trong 3 năm từ 2016 – 2018, tốc độ tăng nợ công “hãm phanh”, chỉ còn 9,6%, giảm gần một nửa và theo đó chỉ số nợ công năm 2018 đã giảm xuống ở mức 58,4% GDP. Dự kiến, chỉ số này của 2019 là 56,1% và 2020 là 54,3%.
Những kết quả này đã nhận được sự đánh giá tích cực từ các tổ chức quốc tế, khi vào tháng 4 và tháng 5/2019 vừa qua, hai tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín thế giới là Fitch Ratings và Standard & Poors (S&P) đều đã công bố nâng chỉ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam.
Vậy nhưng, mới tháng trước, có một sự kiện đã gây ra một chút “sóng gió” cho Việt Nam là việc Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s Investors Service (Moody’s) thông báo xem xét hạ mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia đối với các khoản vay bằng nội tệ và ngoại tệ của Chính phủ Việt Nam. Cơ sở Moody’s đưa ra quyết định xem xét hạ bậc xếp hạng tín nhiệm bắt nguồn từ đánh giá cho rằng những hạn chế trong công tác phối hợp giữa các cơ quan Chính phủ dẫn đến tình trạng chậm thanh toán nghĩa vụ nợ Chính phủ.
Đây có thể nói là một nỗi “oan ức” không nhỏ của Việt Nam bởi rất có thể gây ra sự hiểu lầm không đáng có đối với cộng đồng các nhà đầu tư về khả năng trả nợ của Chính phủ và có thể ảnh hưởng đến uy tín và hình ảnh quốc gia của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bộ Tài chính đã ngay lập tức làm rõ điều Moody’s nhắc tới chỉ là nghĩa vụ nợ được Chính phủ bảo lãnh, thuộc nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ, không phải là nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện trách nhiệm của người bảo lãnh trong việc thanh toán, ngay cả khi chưa nhận được yêu cầu chính thức của bên cho vay.
Bộ Tài chính khẳng định Chính phủ chưa bao giờ chậm trễ trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ.
Thống kê cho thấy, danh mục nợ Chính phủ đến cuối năm 2019 cũng được kiểm soát tốt ở mức 49,2% GDP (giảm xuống tích cực so với mức 52,7% vào năm 2016; 51,7% vào năm 2017).
Câu chuyện cần làm là các đối tượng sử dụng bảo lãnh Chính phủ cần nghiêm túc hơn trong việc bố trí nguồn trả nợ, tránh “con sâu làm rầu nồi canh”, một sự chậm trễ ảnh hưởng đến sự tích cực của cả hệ thống và sự đánh giá của các đối tác quốc tế đối với thành quả của Chính phủ Việt Nam.