Sản xuất - Lực đẩy kinh tế của ASEAN
(HQ Online) - Giới chuyên gia cho rằng sản xuất là một trong những động lực tăng trưởng kinh tế quan trọng của Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) khi khu vực này đang là khu vực trung tâm sản xuất toàn cầu, ước tính sẽ tăng trưởng với tốc độ tăng trưởng kép hằng năm (CAGR) là 6,6% trong giai đoạn từ năm 2016-2020.
Ngành sản xuất ô tô đang mang lại nhiều lợi nhuận cho ASEAN |
Thông qua việc tham gia vào các thỏa thuận thương mại ngoài khu vực, ASEAN đã cải thiện vị thế là một trung tâm sản xuất toàn cầu. Đơn cử như việc thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) giúp đưa ASEAN thành một thị trường và cơ sở sản xuất chung. Trong khi đó, các thỏa thuận thương mại lớn như Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) nếu thành công sẽ là một bước tích cực hướng tới Khu vực thương mại tự do rộng lớn hơn ở châu Á-Thái Bình Dương (FTAAP) có thể đóng vai trò là một diễn đàn liên chính phủ hữu ích về thương mại tự do… Có thể nói nhờ hội nhập kinh tế lớn hơn và môi trường chính sách tự do hóa và phối hợp hơn, các nhà sản xuất trong khu vực có thể được hưởng chi phí giao dịch thấp hơn.
Trong bối cảnh thế giới đang phát triển xu thế sử dụng các ứng dụng khoa học công nghệ cao cũng như có sự phát triển vượt bậc trong ngành công nghiệp sản xuất ô tô, ASEAN đã từng bước bắt kịp xu thế này. Hiện ngành sản xuất và xuất khẩu ô tô đứng ở vị trí thứ 5 trong số các ngành công nghiệp của khu vực ASEAN với giá trị xuất khẩu đạt 42,5 tỷ USD chỉ tính riêng mặt hàng phụ tùng và phụ kiện trong năm 2016. Dự báo, giá trị của ngành sản xuất ô tô dự sẽ tăng 23% lên 77 tỷ USD vào năm 2020 khi nhu cầu nội địa hóa tăng trong quá trình sản xuất ô tô.
Không chỉ lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu ô tô, ngành sản xuất nhiên liệu tinh chế cũng đang mang lại cơ hội tăng trưởng kinh tế lớn cho các nước ASEAN khi nhu cầu sử dụng nhiên liệu của người dân ngày càng lớn và yêu cầu về chất lượng nhiêu liệu ngày càng cao. Điều này đang mang lại cơ hội phát triển cho các nước trong khu vực ASEAN thông qua việc mở rộng xây dựng các nhà máy lọc dầu mới cũng như nâng cấp các nhà máy hiện đạt các tiêu chuẩn vận hành cao hơn.
Trong lĩnh vực năng lượng, do nhu cầu sử dụng năng lượng bình quân đầu người trong khu vực ASEAN vẫn thấp hơn mức bình quân đầu người trên toàn cầu, nên các nước ASEAN vẫn có cơ hội phát triển lĩnh vực này. Trên thực tế, các quốc gia ASEAN đang trong xu hướng phát triển mạnh mẽ, theo đó, sẽ phải đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước, có thể làm tăng sự phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu và gây lo ngại về gánh nặng kinh tế trong việc đảm bảo an ninh năng lượng. Vì vậy, các quốc gia ASEAN phải tìm cách phát triển ngành công nghiệp tinh chế nhiên liệu, giảm phụ thuộc vào nguồn cung bên ngoài, đồng thời tạo ra một sân chơi bình đẳng cho cả nhà đầu tư trong nước và nhà đầu nước ngoài.
Cũng theo giới chuyên gia, có 2 lý do chính khiến lĩnh vực sản xuất của ASEAN phát triển, đó là nhu cầu tiêu thụ hàng hóa với sức mua của 640 triệu người tiêu dùng với phân khúc thu nhập trung bình ngày càng tăng.Yếu tố thứ hai chính là mức chi phí cho các hoạt động sản xuất rẻ hơn các thị trường khu khác đã thu hút các doanh nghiệp lớn ngoài khu vực ASEAN đầu tư sản xuất và mở rộng các hoạt động tại đây. Trong bối cảnh Trung Quốc điều chỉnh mức lương của người lao động tăng đáng kể cũng như sửa đổi các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh theo hướng chặt chẽ hơn dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp phải đối mặt với thực trạng tăng chi phí hoạt động, buộc phải tìm kiếm và chuyển hướng sang các khu vực có chi phí rẻ hơn, ASEAN đã trở thành "đích nhắm" của các doanh nghiệp nhằm giảm chi phí sản xuất trong khi có thể tận dụng được tính ưu việt của chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu.
Tuy vậy, việc phát triển ngành sản xuất của ASEAN đang phải đối mặt với nhiều khó khăn trong đó phải kể đến những tác động tiêu cực từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung bởi vì ASEAN là trung tâm của chuỗi giá trị xuyên quốc gia. Không chỉ vậy, các nhà sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu còn phải gánh chịu hậu quả từ việc chính quyền Mỹ áp mức thuế cao hơn nhiều so với trước đây đối với các mặt hàng đầu vào trong quá trình sản xuất như linh kiện, thiết bị hay các sản phẩm thô khác…