Huỳnh Dũng Nhân - suy tư từ bục giảng ngành báo chí
(HQ Online)- Nhà báo Huỳnh Dũng Nhân là một cây bút phóng sự nổi tiếng và nhiều năm làm Tổng Biên tập Tạp chí Nghề Báo của Hội Nhà báo TP.HCM. Bây giờ nghỉ hưu, nhà báo Huỳnh Dũng Nhân (ảnh) vẫn đảm nhiệm vai trò giảng viên báo chí ở nhiều trường đại học.
Thưa nhà báo Huỳnh Dũng Nhân! Nhiều năm nay, ông tham gia giảng dạy báo chí. Xin hỏi, vấn đề đạo đức truyền thông được đề cập như thế nào trong giáo trình của ông?
20 năm qua, tôi tham gia giảng dạy báo chí với tư cách là giảng viên thỉnh giảng ở các khoa báo chí Đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM và một số trường khác, cũng như ở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ báo chí của Hội nhà báo Việt Nam. Tôi dạy các môn phóng sự điều tra, lao động phóng viên, phỏng vấn, ký chân dung... chứ không dạy môn đạo đức báo chí, truyền thông. Tuy nhiên, vấn đề đạo đức của nghề và người làm nghề không bao giờ thiếu vắng trong các bài giảng của tôi. Vì muốn hay không, những ví dụ tôi dẫn giải về tác nghiệp của phóng viên luôn luôn có dấu ấn của cái tâm, cái tầm, luôn mang sự lựa chọn và quyết định của người làm báo. Khi lên lớp, tôi nhắc lại nhiều kinh nghiệm làm báo của tôi và các đồng nghiệp, những tình huống nên và không nên, những điều cần tránh, những việc nguy hại cho nghề báo để sinh viên cùng chia sẻ và tự tìm ra một cách xử lý tình huống đó. Ví dụ tình huống một người đàn ông đang tập trung cải tạo trong trại, khi bị quản giáo gọi ra để làm một đoạn phỏng vấn truyền hình về một vụ án trước đây, anh ta đã khóc và van nài đừng để anh ta bị lên màn hình, vì anh ta và gia đình đã trả giá quá nhiều đau khổ rồi. Vậy người phóng viên có nên tiếp tục thu hình anh ta không, hay là đóng nắp ống kính tìm cách khác để tiếp tục công việc? Tôi thường nói với sinh viên rằng: “Nghề báo có quyền làm theo lương tâm và trách nhiệm của mình. Đừng nên làm những gì mà chính mình cũng không muốn. Cần thấy rằng sau mỗi bài báo là những hoàn cảnh và số phận những con người. Làm báo là nhắm tới lợi ích cộng đồng, chứ không phải để nổi tiếng và để làm giàu bất chính!”. Tôi là người hay tích lũy và thu lượm các câu chuyện nghiệp vụ của làng báo, nên những câu chuyện nhân văn, hướng thiện, yêu nghề... và những bài học kinh nghiệm về đạo đức nhà báo thường được đưa ra phân tích cho sinh viên thấy được nghề báo nguy hiểm, gian khổ và rất dễ bị cám dỗ nếu không có đạo đức nghề báo. Tôi hiểu là các em sinh viên chưa làm báo nên tránh dùng lối rao giảng đạo đức, mà thường dùng các câu chuyện thực tế để áp dụng phương pháp dùng "nghề dạy nghề" mà thôi.
Từ kinh nghiệm của mình, ông nhận thấy những sinh viên báo chí đã được chuẩn bị gì để vững vàng khi tham gia vào nghề báo nhiều "thị phi" hôm nay?
Khi có nhà báo phỏng vấn tôi trước kia làm báo khó khăn là gì? Tôi nói: Khó khăn là chưa có Internet! Lại hỏi thời nay làm báo khó khăn là gì? Tôi cũng nói khó khăn thời nay là đã có Internet ! Bởi công nghệ đã thay đổi cách làm báo, cách đọc báo, thay đổi rất nhiều thứ trong đó có cả đạo đức nhà báo. Sinh viên báo chí là những người hiểu rõ thế giới mạng. Họ tiếp cận thế giới mạng với tư cách là người sử dụng nó cho học tập và giải trí, giao tiếp và cho những bước đi đầu tiên trong nghề báo. Các sinh viên chuyên ngành báo điện tử chắc được trang bị nhiều hơn thế. Họ đã chuẩn bị cho mình sự cảnh giác và thận trọng cũng như bản lĩnh để bước vào nghề báo thời buổi rất sóng gió và rất nhiều "thị phi" này. Có điều sự hình dung và chuẩn bị ấy có thể chưa đủ liều để đối phó với một thực trạng chắc chắn là dữ dội hơn, chua xót hơn và phũ phàng hơn. Nhiều sinh viên đi làm ở một đơn vị báo chí rồi mới thốt lên: “Tụi em không nghĩ nghề báo khắc nghiệt hơn những gì đã học ở trường!”. Ngay cả một số giảng viên báo chí cũng chưa thấy hết sự cay nghiệt của nghề báo giai đoạn sau này. Theo tôi, cần có những chuyên đề về làm báo kỷ nguyên số cho sinh viên nhiều hơn nữa để các em bớt bỡ ngỡ và lo ngại khi bước vào nghề báo thời @.
Ông đánh giá thế nào về đội ngũ những người làm báo được đào tạo chính quy?
Đến giai đoạn hiện nay, tạm coi là giai đoạn báo chí hiện đại, có thể tính từ khoảng sau năm 2000 trở lại đây, nguồn đào tạo nhà báo chính là từ sinh viên báo chí. Họ tốt nghiệp các trường báo chí với trình độ cao hơn, lý luận tốt hơn, lĩnh vực đào tạo phong phú hơn kể cả trong và ngoài nước, kể cả báo in, báo nói, báo hình, báo mạng. Họ có thế mạnh do bước tiến chung của công nghệ thông tin và xã hội, đó là khả năng tin học và ngoại ngữ khá tốt. Họ lại đang đứng trước nhiều mô hình hoạt động báo chí, truyền thông hiện đại do thời kỳ hội nhập đem lại và đâu đó đã lấp ló xuất hiện hình thức của tập đoàn báo chí đa phương tiện. Và hơn thế nữa, các nhà báo trẻ vươn tầm hoạt động ra thế giới bên ngoài, điều mà trước đây các thế hệ cha anh đi trước đã làm nhưng còn giới hạn trong đấu tranh ngoại giao và một số ít làm báo đối ngoại.
Tuy nhiên, lớp nhà báo được đào tạo chuyên nghiệp sau này cũng có một đặc tính năng động, có thể thay đổi, tự lựa chọn công việc cho mình, họ ít ở lâu một chỗ nếu như có cơ hội thăng tiến hay có một nơi phù hợp hơn. Với những đặc điểm này, tính chuyên nghiệp ở những nhà báo trẻ nằm ở kiến thức và sự cập nhật thông tin cũng như trình độ làm báo hiện đại, năng động, song họ ít chịu ràng buộc một mô hình nào riêng biệt.
Theo ông , có nên rạch ròi giữa nghề PR và nghề báo? Hệ lụy của sự nhập nhèm ấy ra sao?
Đầu năm nay tôi vừa dạy một vài lớp báo chí và nhận thấy nhiều em học báo là để lấy cái bằng đại học, rồi từ đó đi làm truyền thông hay một nghề gì đó khả dĩ liên quan đến báo chí, chứ không nhiều em tha thiết với báo chí (nhất là báo in). Tôi có nói với các em nghề gì thì nghề nhưng kiến thức của nghề báo rất cần thiết, và có thể tạo ra thế mạnh riêng cho các em nếu sau này các em chọn nghề khác. Nó có mối liên quan chung- riêng với nhau như nghề dược với nghề y, như thủ môn và cầu thủ đá bóng của một đội bóng... Nghề báo và nghề PR khó có thể tách ra làm hai nửa như cắt đôi một củ khoai. Nó có liên quan và hoà quyện nhưng mục đích sử dụng thì nên rạch ròi hơn. Trang PR trong tờ báo và trang nội dung của tờ báo là khác nhau. Hệ lụy là cùng mục đích cung cấp thông tin, nhưng khác nhau là vai trò người cung cấp thông tin. Nhà báo chủ động và chịu trách nhiệm thông tin khi báo thấy cần thiết thông tin cho bạn đọc. Còn PR viết bài bỏ tiền thuê báo đài đăng thông tin của họ. Mập mờ nội dung và tiền bạc sẽ làm bạn đọc mất lòng tin vào thông tin trên báo đài. Mà việc mất lòng tin rất dễ lan truyền dây chuyền như... trò domino.
Muốn hạn chế những tiêu cực trong báo giới, ông có đề xuất giải pháp gì không?
Tôi nghĩ phải làm nhiều việc lắm, nhưng những việc ấy thuộc về các nhà lãnh đạo và các nhà quản lý, tôi không dám lạm bàn.
Nếu một bạn trẻ cảm thấy thất vọng vì bức tranh báo chí hiện nay, ông khuyên họ điều gì?
"Nếu có chữ ‘nếu’ thì người ta đã có thể bỏ Paris vào trong một chiếc lọ"... Bức tranh báo chí hiện nay quả là không còn được như mong đợi, nhưng tôi vẫn tin sẽ thay đổi được tình trạng đáng buồn này. Có lẽ tôi sẽ khuyên bạn ấy là hãy xác định lại mục đích và đam mê ban đầu của bạn khi chọn nghề báo là gì...
Ngoài vai trò nhà báo, Huỳnh Dũng Nhân còn là một nhà thơ mà tập thơ vừa xuất bản có tên gọi “Tự tình với Facebook”. Có phải thơ giúp ông cân bằng khi đối diện căng thẳng nghề báo?
Đúng! Tôi đã từng viết về mình bằng những vần điệu: “Có một kẻ đứng giang tay giữa phố. Nhắm mắt nghiền để nhớ những yêu thương. Những cay đắng và trò đời vụn vặt. Trời xanh nào thổi hết ưu phiền”.
Cảm ơn ông! Chúc ông nhiều sức khỏe để tiếp tục gắn bó với bục giảng ngành báo chí!