Năng lực cạnh tranh, thị phần hàng Việt cải thiện rõ tại thị trường EU
(HQ Online) - Năng lực cạnh tranh và thị phần của hàng hóa Việt ngày càng được cải thiện rõ rệt tại thị trường EU. Việt Nam hiện vươn lên trở thành đối tác thương mại lớn nhất của EU trong khu vực ASEAN.
Toàn cảnh diễn đàn |
Phát biểu tại Diễn đàn “Thương mại Việt Nam – EU: EVFTA – Sức bật cho hợp tác thương mại đầu tư trong bối cảnh bình thường mới” diễn ra sáng nay 27/10/2021, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đặng Hoàng An cho biết, mặc dù Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề do đợt dịch thứ 4 bùng phát tại vùng xuất khẩu trọng điểm phía Nam, 9 tháng năm 2021, thương mại 2 chiều giữa Việt Nam và EU vẫn ghi nhận sự tăng trưởng khả quan.
Cụ thể, kim ngạch xuất nhập khẩu 2 chiều đạt 41,3 tỷ USD, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, xuất khẩu đạt 28,85 tỷ USD, tăng 11,7% và nhập khẩu đạt 12,4 tỷ USD, tăng 17,6% so với cùng kỳ năm 2020.
Đáng chú ý, ngày càng nhiều doanh nghiệp tận dụng được ưu đãi từ Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) qua việc sử dụng Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) ưu đãi.
Thống kê của Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho thấy: Trong năm đầu tiên thực thi Hiệp định EVFTA, các cơ quan, tổ chức được uỷ quyển cấp C/O mẫu EUR.1 đã cấp khoảng 207.682 chứng nhận C/O mẫu EUR.1 với kim ngạch đạt khoảng 7,71 tỷ USD đi 27 nước EU. Ngoài ra, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa sang EU còn thực hiện tự chứng nhận xuất xứ cho 6.115 lô hàng được hưởng ưu đãi thuế quan theo EVFTA.
Ngoài ra, năng lực cạnh tranh và thị phần của hàng hóa Việt cũng ngày càng được cải thiện rõ rệt tại thị trường EU. Việt Nam hiện đã vươn lên trở thành đối tác thương mại hàng hóa lớn nhất của EU trong khu vực ASEAN, với kim ngạch thương mại hai chiều năm 2020 đạt 43,2 tỷ EUR (theo Cơ quan thống kê châu Âu - Eurostat) và xếp trong “Top” 10 các nước cung ứng hàng hóa lớn nhất vào thị trường EU.
Ngoài yếu tố thương mại, ở góc độ đầu tư, với cam kết mạnh mẽ đảm bảo tính minh bạch, thông thoáng, thuận lợi trong môi trường kinh doanh - đầu tư, Việt Nam đã tiếp nhận được nguồn đầu tư chất lượng cao từ EU với những dự án có công nghệ tiên tiến.
“Đây là những kết quả đặc biệt đáng ghi nhận sau một năm thực thi Hiệp định EVFTA, đồng thời là cơ sở để có thể lạc quan, tin tưởng vào một sức bật mạnh mẽ trong phát triển hợp tác thương mại đầu tư Việt Nam – EU trước bối cảnh bình thường mới”, Thứ trưởng Đặng Hoàng An nhấn mạnh.
Trao đổi tại diễn đàn, nhiều chuyên gia, khách mời trong nước và nước ngoài cũng bày tỏ lạc quan về triển vọng phục hồi kinh tế và phát triển quan hệ thương mại và đầu tư Việt Nam – EU trong bối cảnh bình thường mới; đồng thời cũng chỉ ra không ít những thách thức đặt ra trước mắt, đặc biệt là diễn biến phức tạp và khó lường của đại dịch Covid-19.
Thế giới đang trải qua những biến động nhanh chóng, sâu sắc dưới tác động của đại dịch Covid-19. Quá trình chuyển dịch kinh tế toàn cầu tiếp tục được thúc đẩy mạnh mẽ, đòi hỏi Việt Nam – một nền kinh tế có độ mở cao, phải nhanh chóng thích ứng, chủ động tham gia vào quá trình tái cấu trúc chuỗi cung ứng mới, trở thành một “mắt xích” quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu mới đang được hình thành.
Việt Nam cần xây dựng các kịch bản phù hợp để thích ứng linh hoạt và hiệu quả với tình hình mới; khơi thông mọi nguồn lực cho phục hồi và tăng trưởng kinh tế, đảm bảo chuỗi cung ứng; đồng thời tích cực hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, ổn định và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.
Ông Alain Cany, Chủ tịch EuroCham nhận định, với việc dịch bệnh được kiểm soát trở lại, cùng lợi thế lớn từ EVFTA và tới đây là Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam-EU (EVIPA), Việt Nam sẽ có cơ hội thu hút làn sóng FDI mới từ các nhà đầu tư châu Âu đang tìm kiếm một điểm đến ổn định, an toàn, thịnh vượng và cạnh tranh.
“Hai bên cần hợp tác chặt chẽ trong việc giải quyết các vấn đề tồn tại vì lợi ích chung của cộng đồng doanh nghiệp”, ông Alain Cany nói.
Theo tính toán từ số liệu của Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính), trao đổi thương mại hai chiều giữa Việt Nam và EU sau một năm thực thi Hiệp định EVFTA đạt 54,87 tỷ USD, tăng 12,1% so với giai đoạn cùng kỳ. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 38,48 tỷ USD, tăng 11,3% và kim ngạch nhập khẩu đạt 16,39 tỷ USD, tăng 14,04%. |