Đề xuất thu phí môi trường nước thải bệnh viện cao hơn hộ gia đình
(HQ Online) - Bộ Tài chính đang gửi xin ý kiến rộng rãi dự thảo Nghị định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải, trong đó có đề nghị điều chỉnh mức phí đối với nước thải sinh hoạt.
Khoảng 80% khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung | |
Việt Nam nằm trong nhóm 20 nước thải rác nhiều nhất | |
Sẽ kiểm soát nước thải và khí thải trong sản xuất thép chặt hơn |
Ảnh minh họa. Nguồn: internet. |
Theo Bộ Tài chính, tại khoản 1 Điều 6 Nghị định 154/2016/NĐ-CP ngày 16/11/2016 của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải quy định: Mức phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt là 10% trên giá bán của 1m3 nước sạch chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng. Trường hợp cần thiết áp dụng mức thu cao hơn, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định mức cụ thể phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương.
Trong quá trình thực hiện quy định này, một số địa phương (Đà Nẵng, Đồng Nai, An Giang) cho rằng các cơ sở rửa ô tô, rửa xe máy, sửa chữa ô tô, sửa chữa xe máy; nhà hàng, khách sạn chịu phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt như cá nhân, hộ gia đình là không công bằng, vì nước thải của đối tượng này có mức độ gây ô nhiễm môi trường cao hơn.
Căn cứ vào quy định tại Nghị định 154 nói trên thì Chính phủ đã trao quyền cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định mức thu cụ thể với những trường hợp đặc biệt. Như vậy, trường hợp nước thải của cơ sở rửa ô tô, rửa xe máy, sửa chữa ô tô, sửa chữa xe máy; nhà hàng, khách sạn ô nhiễm hơn thì địa phương có thể quyết định mức phí cao hơn.
Tuy nhiên, để thống nhất thực hiện, khi đề xuất sửa Nghị định 154, Bộ Tài chính dự kiến quy định mức phí BVMT đối với nước thải sinh hoạt là 10% trên giá bán của 1m3 nước sạch chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng.
Riêng mức phí áp dụng đối với đối tượng chịu phí là nước thải ra từ các cơ sở rửa ô tô, rửa xe máy, sửa chữa ô tô, sửa chữa xe máy; bệnh viện; phòng khám chữa bệnh; nhà hàng, khách sạn; cơ sở đào tạo, nghiên cứu; cơ sở kinh doanh, dịch vụ khác là 15% trên giá bán của 1m3 nước sạch chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng.
Trường hợp cần thiết áp dụng mức thu cao hơn, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định mức cụ thể phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương.